Cặp đối lạ ở Đền Hùng

Tại Đền Trung, Khu Di tích Đền Hùng có bức đối không đề niên đại, không lạc khoản. Hai câu xếp đối mà đọc lên như là bất đối chi đối (dạng đối vẻ như đối mà không đối): 'Vấn lai dĩ sự tu vi sử/ Tế nhận như đồ dục mệnh thi' (Muốn hỏi chuyện đã qua từng làm nên sử sách/ Chiêm bái cơ đồ, sự nghiệp đất nước, ta những muốn đề thơ).

Vế đối này được cho là bút tích của chúa Trịnh Sâm. Hậu thế căn cứ vào bài phú của nhà nho Dương Lâm soạn năm Khải Định thứ 5 (1920). Bài phú được cụ Trần Văn Giáp (nhân viên của Viễn Đông bác cổ) chép bằng bút sắt, hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Trong tác phẩm của mình, tác giả Dương Lâm khẳng định đây là bút tích của chúa Trịnh: "Núi Tổ Hùng sơn, cây cối cao vút. Trên núi có đền, cạnh đền có mộ. Đền có câu đối của chúa Trịnh Sâm: Vấn lai dĩ sự tu vi sử/ Tế nhận như đồ dục mệnh thi (dịch thơ: Hỏi ra thiên sử mấy lần/ Thành thơ cẩn thận nên tranh họa đồ). Nét chữ cổ kiện, văn ý hùng mại, đúng là khí tượng của bậc vua chúa. Thủ bút của chúa Trịnh có khác".

Lại nữa, hiện vẫn còn bức ảnh đen trắng của EFEO (Viện Viễn Đông Bác cổ - École francaise d'Extrême-Orient - Trung tâm nghiên cứu của Pháp về Đông phương học) chụp đôi câu đối tại Đền Hùng. Chưa hết, còn bài viết của thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu trên An Nam tạp chí xuất bản tháng 2/1925 như sau: "Năm xưa, tôi đi hội Đền Hùng, lên chiêm yết Lăng đức Hùng Vương, thấy có treo một đôi câu đối sơn thếp, lối chữ viết thật tốt mà nước sơn cũng đẹp, mỗi bên chỉ có bảy chữ. Khan lai dĩ sự tu vi sử/ Tế nhận như đồ dục mệnh thi. Ngoài 14 chữ ấy, thời không có niên hiệu và lạc khoản gì cả. Tuy không biết là của ai và treo từ bao giờ, nhưng cứ trông lối chữ và nước sơn, có thể đoán là câu đối ấy cổ".

Tản Đà, cái người thơ ngông từng tá túc ở nhà bạn, dám nạy cả nền nhà gạch hoa nhà người ta lên… trồng mấy cụm rau thơm để tiện việc đánh chén, trước "nét chữ cổ kiện, văn ý hùng mại, khí tượng của bậc vua chúa" ấy tự dưng nổi cơn bực bõ đã riết róng rằng: "Một chỗ rất tôn nghiêm như thế, mà có đôi câu đối được treo ở đó, thời phải là người có vị thế đặc biệt. Sau hỏi ra mới hay, ấy là của chúa Trịnh Sâm! Họ Trịnh đối với Hùng Vương mà có cái câu đối ấy, cũng là một sự bất túc quái" (...). Cứ nguyên văn Dục mệnh thi (muốn ban thơ) thời biết ba chữ ấy thực là bất kính. Chữ “mệnh” tức là ban, là nhời người trên đối đãi với kẻ dưới, Hùng Vương thời là thủy tổ của nước Nam, dẫu từ Đinh, Lý, Trần, Lê, các vua ai có dám viết như thế cũng đều là bất kính, nữa là của chúa Trịnh Sâm".

Chúa Trịnh Sâm là người như thế nào?

Là con trưởng của Nghị tổ ân vương Trịnh Doanh, quê ở làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, năm ất Sửu (1745) được lập làm thế tử, lên ngôi Chúa năm Đinh Hợi niên hiệu Cảnh Hưng, đời vua Lê Hiển Tông (1767)

Từ nhỏ Trịnh Sâm đã được học hành bài bản được coi là một người văn võ song toàn, quyết đoán, ham xem kinh sử và thơ văn.

Ở ngôi chúa 15 năm (1767 - 1782), Trịnh Sâm hầu như tuần du khắp đàng Ngoài và nhiều vùng đất đàng Trong. Hậu thế có thể nhẩn nha lục tìm những tuyệt tác thơ khắc trên đá tác phẩm của Trịnh Sâm trong "Thanh Tâm tồn duy thi tập", "Tây tuần ký trình thi", "Nam tuần ký trình thi", "Bình hưng thực lục"... Tiếc rằng cho đến nay vẫn chưa có một tập thơ tuyển chọn những bút tích của vị chúa thi sĩ độc đáo, người có thơ đề trên đá nhiều nhất nước Nam này!

Đã bao lần ghé danh thắng Hoa Lư mà tôi vẫn ngẩn ngơ trước hai chữ BÍCH ĐỘNG (chữ cao 71cm, rộng 55 cm) phía trên vòm cửa Động Chùa Trung! Mé dưới là dòng lạc khoản "Nhật Nam nguyên chủ đặc bút/ Nguyễn Nghiễm phụng đề" (Bút tích đặc biệt của người đứng đầu nước Nam - Nhật Nam nguyên chủ là hiệu của chúa Trịnh Sâm. Nguyễn Nghiễm vâng mệnh viết chữ).

Nguyễn Nghiễm là ai vậy? Cái người biệt hiệu là Hồng Ngư cư sĩ, người xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh) là một danh thần "danh cao đức trọng" ở triều Lê Trịnh. Người thời ấy ngưỡng vọng như sao Khuê, sao Đẩu.

Hổ phụ sinh hổ tử, các con của Nguyễn Nghiễm tiếp nối truyền thống thi thư của gia đình. Có Nguyễn Khản đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn năm 1760, giữ nhiều trọng trách trong triều đình. Nguyễn Đề (Nễ) đỗ Tam trường làm quan đến chức Đông các Đại học sĩ, hai lần đi sứ nhà Thanh. Có người con thứ Nguyễn Du, sau này là Danh nhân văn hóa thế giới nổi tiếng với “Truyện Kiều”.

Tôi đang tưởng tượng đến một hình ảnh đẹp của một ngày xa ấy. Người cha của thi hào Nguyễn Du cùng con trai là Nguyễn Khản luôn được theo hầu vị chúa Trịnh Sâm tài hoa. Bên cạnh lại có nhà bác học Lê Quý Đôn. Mỗi lần ghé qua danh thắng nào đó, khi nhà Chúa nổi hứng đề thơ, lại sai danh nhân Nguyễn Nghiễm làm phận sự viết chữ cùng khắc thêm dòng lạc khoản. Cái thú tao nhã sang trọng nhường ấy tưởng không gì so được!

Lại bao lần bâng khuâng dừng bước trước 4 đại tự "Thanh Kỳ Khả Ái" (Xứ Thanh Kỳ lạ đáng yêu) trên khoảng đá của động Hồ Công (đỉnh núi Xuân Đài, xã Ninh Khang, huyện Vĩnh Lộc- Thanh Hóa) từng được nhiều vua chúa, danh nho xưa đến tham quan rồi cho khắc thơ lên vách đá, ca ngợi cảnh đẹp nơi đây... Nét hằn trên đá theo bút hàng trăm năm vẫn còn rờ rỡ chĩnh chiện!

Hỡi ôi, bây giờ leo Đền Hùng bao cảm giác tiếc xót bởi cặp câu đối lạ của chúa Trịnh Sâm viết theo lối thảo ấy nay đã không còn!

Bao bận ghé Đền mà tôi cứ bẵng đi cái việc hỏi ông thủ từ lẫn ông Trưởng ban Quản lý Khu Di tích Lịch sử Đền Hùng rằng, sơ bộ thống kê thì Khu Di tích Đền Hùng có bao nhiêu hoành phi, câu đối, bao nhiêu là Hán? Là Nôm? Là quốc ngữ? Lại nữa, tác giả những bức hoành phi câu đối ấy là những ai? Được dâng cúng vào Đền Hùng thời gian nào?

Than ôi, bây chừ con cháu về giỗ Tổ đành ngậm ngùi cảm nhận ngữ nghĩa qua người thuyết minh hoặc các bảng biểu treo trên tường! Không biết tác giả, nhưng chiêm quan hoành phi cùng câu đối mà cũng chỉ thầm đoán phải là những đấng bậc văn chương, các bậc túc nho hoặc cao sang hơn thế, phải là chữ nghĩa của các đấng quân vương.

Nói vô danh, khuyết danh cả cũng chả phải. Nhưng hiếm hoi làm sao, nghển ngó mỏi cổ cũng chỉ được biết ở Hùng Vương Cơ Miếu có ba bức hoành. Một của vua Duy Tân (Nam quốc sơn hà), Bức của vua Khải Định (Quyết sơ sinh dân (dân sinh là điều tiên quyết) và Tử tôn bảo chi (con cháu nhớ giữ gìn). Và cũng hiếm hoi như đã nói ở Đền Trung có đôi câu đối của chúa Trịnh Sâm. Nhưng đã bị mất.

Chúa có câu đối, vua cũng chả kém. Thơ của vua Lê Hiển Tông (bố vợ Quang Trung): "Mộ cũ ở lưng đồi /Đền thờ trên sườn núi /Muôn dân tới phụng thờ /Khói hương còn mãi mãi...". Nhưng thơ vua chỉ lưu trong sách, trên Đền không thấy ghi.

Cũng cần nói thêm, chính sử còn chép rõ giai đoạn vua Lê chúa Trịnh đã có sự quan tâm đặc biệt và vương triều này đã góp phần lớn xây dựng lại Đền Hùng. Năm 1407 nhà Minh phá trụi Đền Hùng. Khi Đại Việt thanh bình trở lại, triều Lê sơ chiêu dân lập lại làng. Vua Lê Thánh Tông cho xây lại đền Trung, đền Hạ. Tiếp đó xây lại đền Giếng. Năm 1600, thời vua Lê Kính Tông, chúa Trịnh Tùng sai quan thị độc Nguyễn Trọng sao lại tài liệu về Đền Hùng. Năm 1727, chúa Trịnh Cương sai Hoàng Nghĩa Chử xây dựng ở Hy Cương tức Đền Hùng. Vậy nên trong khung cảnh thanh bình ấy, cuối thế kỷ 18, chúa Trịnh Sâm múa bút để có cặp đối mang âm hưởng và khí thế khoát hoạt ấy khiến hậu thế như cụ Tản Đà đâm bực bõ thì cũng hơi… quá.

Tại một số bia đá đề thơ của chúa Trịnh Sâm ở Ninh Bình đã có hiện tượng đục bỏ nếu không toàn bộ thì bị khuyết bị sứt mẻ ít dòng! Mãi sau này hậu thế mới biết đó là hành động hơi bị nông nổi của vài ông vua Nguyễn. Như năm 1840, vua Minh Mệnh ra lệnh đục bỏ những đoạn ca ngợi công đức của các chúa Trịnh trên một số bia thời Lê Trịnh tức Lê Trung Hưng.

Chợt giật mình, có vị vua nhà Nguyễn nào đó để ý đến cặp đối hơi bị ngông của Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm ở Đền Hùng không nhỉ? Chắc là không! Bởi đến tận năm 1937, cặp đối ấy vẫn còn hiện diện ở Đền Trung và được trưng trên Tạp chí BEFFO của Viễn Đông bác cổ. Hay duyên do cái bài báo trên An Nam Tạp chí tháng 2/1925 khiến nhà chức việc nào đó của Bộ Lễ, Bộ Học nhà Nguyễn khi ấy đâm nổi cơn thịnh nộ bởi khẩu khí riết róng riệt cho cái tội phạm thượng của thi sĩ Tản Đà?

Cứ phân vân mãi về vế đối lạ được cho của vị chúa thi sĩ Trịnh Sâm ở Đền Hùng nay đã không còn nữa!

Hay thời thế đổi thay, nhiều lần tu tạo Đền Hùng, các nhà chức việc các thời ấy đã làm cái việc "biên tập'' lại cho hợp thời?

Xuân Ba

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/so-tay/cap-doi-la-o-den-hung-i761360/
Zalo