Căng thẳng ảnh hưởng ra sao đến tuổi thọ?
Tuổi thọ của con người tương tự một phép tính được cộng dồn từ nhiều yếu tố như di truyền, lối sống và trạng thái tâm lý. Muốn kéo dài tuổi thọ, cần điều chỉnh các yếu tố này.

Muốn kéo dài tuổi thọ, cần duy trì lối sống lành mạnh và giữ tâm trạng thoải mái. Ảnh minh họa: C.F.
Vậy nghĩa là gen không quá quan trọng? Tất cả những gì bạn cần là một bà mẹ ôm ấp và cưng nựng con cái thật nhiều? Đừng vội. Mặc dù yếu tố ngoại di truyền là một phương trình khá mới mẻ, thú vị và cho chúng ta biết nhiều điều, chúng ta vẫn không thể phủ nhận tầm ảnh hưởng của ADN đến từ trứng và tinh trùng tốt.
Như chúng ta đã biết, mọi thứ đều liên quan đến bẩm sinh và nuôi dưỡng. Bạn truyền cho con cả genome và epigenome, và cả hai đều ảnh hưởng đến sức khỏe. Ví dụ, bạn có thể may mắn có những telomere siêu dài. Có lẽ tất cả phụ nữ bên ngoại bạn đều sống hơn trăm tuổi mà trông không quá 75.
Nhưng bạn đã trải nghiệm nghịch cảnh trong thời thơ ấu, và giờ đây bạn có điểm ACE [1] cao. Telomere của bạn bị sứt mẻ nhanh hơn bình thường, nhưng bởi vì bẩm sinh bạn có telomere dài, bạn có một nệm đỡ tốt. Trong trường hợp đó, kết quả có lẽ sẽ không mấy thảm khốc; bạn không nhất định sẽ sống đến trăm tuổi, nhưng bạn có lẽ cũng không chết sớm như điểm ACE tiên lượng.
Tuy nhiên, nếu bạn bẩm sinh không có lợi thế telomere dài, câu chuyện có thể sẽ khác. Nếu bạn trải nghiệm nghịch cảnh, những cắt xén ở telomere có thể dẫn đến một sức khỏe tồi tệ hơn rất nhiều. Và giống như những đứa trẻ cùng cha cùng mẹ nhưng khác màu mắt, chúng có thể cũng có telomere dài ngắn khác nhau, điều này có thể dẫn đến hệ quả khác biệt mặc dù chúng trải nghiệm nghịch cảnh tương tự nhau.
Nghiên cứu về điều hòa ngoại di truyền và telomere đã củng cố cho điều tôi nghi ngờ, phát hiện sớm là điều tối quan trọng. Hơn bao giờ hết, tôi tin rằng nếu có thể nhận diện những người có rủi ro từ căng thẳng độc hại bằng cách kiểm tra ACE, chúng ta có thể phát hiện các bệnh liên quan sớm hơn và chữa trị chúng hiệu quả hơn.
Không chỉ vậy, chúng ta có thể ngăn ngừa các bệnh trong tương lai bằng cách chữa trị vấn đề nằm ẩn bên dưới, một hệ thống phản ứng với căng thẳng bị tổn hại. Nếu đưa đúng hướng dẫn điều trị vào các phòng khám nhi khắp các thành phố, quốc gia và thế giới, chúng ta có thể can thiệp kịp thời để đảo ngược tổn thương ngoại di truyền và thay đổi sức khỏe dài hạn cho khoảng 67% dân số có ACE và con cái họ. Và, một ngày nào đó, cháu chắt của họ cũng sẽ được hưởng lợi.
Tiềm năng đạt được những kết quả đó và nền tảng khoa học đằng sau đã khiến tôi rất phấn khích. Tôi đã nói với mọi người ở các bữa tiệc để có thể chạm đến tất cả những người giao thiệp rộng mà tôi biết trong cộng đồng ngành y để tìm ra một người quyền lực hơn tôi và có thể cam kết làm gì đó.
Phòng khám của tôi đã bắt đầu chu trình thăm khám ACE cho mọi bệnh nhân, nhưng thông tin này có thể giúp ích cho rất nhiều bác sĩ ngoài kia. Lớn lên ở Palo Alto trong thập niên 80 trong tầng lớp tạm gọi là trung lưu, tôi biết rằng trẻ con có ACE sống trong nhiều khu dân cư khác nhau.
Khi ở đó, một vài bạn cùng lớp với tôi ở Palo Alto đã cố tự tử, và sau đó, tôi nghe kể về việc cha mẹ lạm dụng chất kích thích và có bệnh tâm thần mà các học sinh phải âm thầm vật lộn cùng. Thậm chí trong những khu vực giàu có hơn Bayview, căng thẳng độc hại về cơ bản là hoàn toàn vô hình đối với hệ thống chăm sóc sức khỏe.
Bayview có lẽ là nơi khá hiển nhiên để tìm hiểu về hệ quả của nghịch cảnh, nhưng căng thẳng độc hại là một bệnh dịch vô hình ảnh hưởng đến mọi cộng đồng.
Từ khi Nghiên cứu ACE được công bố lần đầu, 39 bang và quận Columbia đã thu thập dữ liệu ACE của người dân. Những báo cáo này cho thấy khoảng 55-62% dân số đã có ít nhất một ACE, và khoảng 13 - 17% có ACE từ bốn trở lên. Những bang có trẻ nhỏ có tỉ lệ ACE cao nhất là Alabama, Indiana, Kentucky, Michigan, Mississippi, Montana, Oklahoma và West Virginia.
Nếu không được kiểm soát, tác động của ACE và căng thẳng độc hại mà chúng gây ra sẽ được truyền lại cho các bậc cha mẹ có ý tốt trong các gia đình trên khắp đất nước và chắc chắn là trên toàn thế giới.
[1] Viết tắc của Adverse childhood experiences - (ACE) là những sự kiện có khả năng gây tổn thương xảy ra ở tuổi vị thành niên (0-17 tuổi). Nếu không được chữa lành, những chấn thương này có thể gây ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của trẻ khi trưởng thành.