Cần triển khai nhiều hơn mô hình phòng, chống đuối nước đối với trẻ em
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Công điện số 118/CĐ-TTg về tăng cường công tác phòng, chống đuối nước đối với trẻ em, học sinh.
Công điện nhấn mạnh đến việc cần thiết phải tuyên truyền giáo dục kỹ năng phòng, chống đuối nước, dạy bơi an toàn cho trẻ em, học sinh trong trường học và tại cộng đồng dân cư.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, phóng viên có cuộc phỏng vấn ông Đặng Hoa Nam – Cục trưởng Cục trẻ em (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội).
Thưa ông, ông đánh giá gì về tình trạng tai nạn thương tích nói chung và đuối nước nói riêng ở trẻ em?
Tỷ suất trẻ em tử vong do tai nạn thương tích nói chung và đuối nước nói riêng ở Việt Nam tương đối cao. Thời gian gần đây tiếp tục xuất hiện các tai nạn thương tích khác, ví dụ liên quan đến ngộ độc thực phẩm, cháy nổ… Vì vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm, kiểm soát được việc cung cấp thực phẩm cho những trường học, bếp ăn bán trú, các dịch vụ bán đồ ăn cho học sinh gần trường học...
Bên cạnh đó, cần tăng cường giáo dục truyền thông về việc thực hiện tốt biện pháp phòng ngừa; đưa những kiến thức sinh tồn vào môi trường học đường… Tôi muốn nhấn mạnh thêm cần phải kiểm tra, triển khai truyền thông giáo dục nhiều hơn nữa, ví dụ như Ngôi nhà an toàn.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã có tiêu chí Ngôi nhà an toàn, chúng ta cố gắng phấn đấu có ít nhất 5 triệu hộ gia đình đạt tiêu chí Ngôi nhà an toàn. Thời gian tới, Cục trẻ em sẽ tham mưu lãnh đạo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cập nhật thêm những tiêu chuẩn Ngôi nhà an toàn để phòng chống những loại tai nạn có nguy cơ gia tăng hiện nay.
Đồng thời cần có tiêu chí trường học an toàn, phải tăng trường trách nhiệm của chính quyền cơ sở nơi có trường học, trách nhiệm của cộng đồng dân cư nơi có trường học, trách nhiệm của các bậc cha mẹ.
Trở lại câu chuyện chúng ta vẫn nói nhiều hơn đến việc kết hợp 3 môi trường: Gia đình – nhà trường và xã hội, với trọng tâm tạo môi trường an toàn phòng chống thương tích cho trẻ em, đặc biệt là trách nhiệm của chính quyền cơ sở, cộng đồng dân cư đối với các loại hình kinh doanh thức ăn ở ngoài cổng trường, cung cấp thực phẩm cho trường học có bán trú… cần phải cập nhật và có tiêu chuẩn về trường học an toàn.
Hiện nay chúng ta đang có một loạt tiêu chí như: Đô thị văn minh, nông thôn mới, xã phường thị trấn phù hợp với trẻ em, song tôi thiết nghĩ cần làm sao phải lồng ghép được những tiêu chí này với nhau và đặt trẻ em vào trung tâm. Cho dù là nông thôn mới, đô thị văn minh thì vẫn phải đặt trẻ em vào trong trung tâm và lấy trẻ em là đối tượng ưu tiên trước hết. Bởi chúng ta phải hiểu nguyên tắc, nếu môi trường sống an toàn cho trẻ em thì nó cũng an toàn cho đa số người dân.
Số liệu thống kê cho thấy, đuối nước vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu với trẻ em, theo đánh giá của ông, tỷ lệ này ở Việt Nam thời gian gần đây như thế nào?
Hiện trung bình mỗi năm chúng ta kéo giảm được 3-5% số vụ (tương ứng khoảng 100 trường hợp trẻ em được cứu sống mỗi năm) nếu so với cách đây 10 – 15 năm. Có thời điểm số trẻ bị tử vong do đuối nước xấp xỉ 3.000 trường hợp/năm thì hiện nay xấp xỉ 2.000 trường hợp, có những năm đã xuống khoảng 1.800 trường hợp. Tuy nhiên tốc độ giảm một cách tự nhiên như vậy không bảo đảm yêu cầu và mục tiêu kiểm soát tai nạn thương tích và bằng mọi cách chúng ta cố gắng kéo giảm nhanh hơn nữa, mỗi năm đạt mục tiêu kéo giảm từ 3-5% hoặc tốt hơn là 10%.
Theo ông, giải pháp để có thể đạt được mục tiêu nhanh hơn?
Chúng ta đã có những mô hình can thiệp tốt nhưng vấn đề hiện nay là phải nhân rộng mô hình đó ra. Việc nhân rộng ít nhất bằng nguồn ngân sách của địa phương thì phải tăng cường hơn nữa nguồn ngân sách để chúng ta có thể triển khai các mô hình phòng chống đuối nước, như: Thiết lập môi trường nước an toàn, tăng cường các biện pháp giám sát của gia đình, cộng đồng, trường học đối với học sinh, trẻ em; tăng cường mở lớp dạy bơi an toàn, kỹ năng an toàn cho trẻ em và học sinh. Tất cả những điều này đòi hỏi phải có sự đầu tư ngân sách hợp lý.
Tôi cũng hiểu rằng bài toán còn phụ thuộc vào ngân sách của các địa phương, nhất là những địa phương nhận hỗ trợ từ ngân sách trung ương và chưa cân đối được thu – chi, thì cũng cần có sự cân đối và ưu tiên, bởi lẽ cứu sinh mạng trẻ là lĩnh vực cần ưu tiên và đầu tư cho ngân sách triển khai mô hình bền vững cho trẻ em không thực sự tốn quá nhiều ngân sách. Tôi mong muốn UBND, HĐND các tỉnh/thành phố hãy nhanh chóng có nghị quyết để phân bổ hợp lý nguồn lực, bao gồm cả nhân lực, nguồn ngân sách địa phương, để làm sao nhanh chóng triển khai mô hình can thiệp phòng chống đuối nước trẻ em.
Bởi vì bằng chứng ở những vùng có can thiệp, có ngân sách địa phương đầu tư hoặc dự án nào triển khai thì rõ ràng từ 3-5 năm số vụ tử vong do tai nạn thương tích đã giảm từ 30-50%.
Mô hình can thiệp của chúng ta hiện nay khá hiệu quả, được Tổ chức Y tế thế giới đánh giá có thể nhân rộng ở một số nước trong khu vực và cam kết của Chính phủ Việt Nam ở cấp trung ương được đánh giá cao. Tuy nhiên chúng tôi muốn chuyển cam kết này đến chính quyền các địa phương, cộng đồng để tăng cường mô hình can thiệp, giám sát tăng cường, chung tay của cộng đồng để làm sao có cảnh báo, cảnh giới, thiết lập môi trường sống an toàn cho trẻ em.
Ở Việt Nam, môi trường tự nhiên đối với phòng ngừa đuối nước thực sự không thuận lợi, có nhiều nguyên nhân khách quan dẫn đến khó khăn để kéo giảm tình trạng thương tích ở trẻ em, đặc biệt đuối nước. Nhưng nguyên nhân khách quan không được dùng để biện minh cho trách nhiệm của chính quyền các cấp, tổ chức đoàn thể, gia đình, trường học mà phải có trách nhiệm thiết lập môi trường sống an toàn cho trẻ, đó là vấn đề ưu tiên hiện nay.
Để làm tốt công tác phòng chống tai nạn cho trẻ, thời gian tới, Cục trẻ em có kế hoạch gì?
Hiện nay lĩnh vực trẻ em có rất nhiều quyết định của Thủ tướng Chính phủ, các đề án, chương trình, kế hoạch, đặc biệt chính sách trong các lĩnh vực khác nhau, ví dụ như giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, bảo trợ trẻ em… Tuy nhiên chúng ta đang ở trong thời điểm rất quan trọng, bởi có nhiều đề án, chương trình, quyết định của Thủ tướng Chính phủ cũng như của UBND các tỉnh/thành phố đang chuẩn bị về đích.
Năm 2025, chúng ta sẽ đánh giá, tổng kết hàng loạt chương trình này. Vấn đề hiện nay của chúng tôi là đi tăng cường kiểm tra, đôn đốc hướng dẫn để làm sao các tỉnh/thành phố có đầu tư, triển khai mô hình can thiệp, giải pháp theo quyết định của Thủ tướng để làm sao thúc đẩy đạt được mục tiêu của đề án, chương trình về trẻ em vào năm 2025.
Một nội dung cũng rất quan trọng mà chúng ta đang chuẩn bị sang năm sau là Đại hội Đảng các cấp, đặc biệt là Đại hội Đảng bộ của các tỉnh, thành phố. Chúng tôi mong muốn rằng nhận thức từ những bài học, từ chính sách, đề án, kế hoạch về trẻ em, đặc biệt giải quyết các vấn đề trẻ em trong thời gian vừa qua.
Một lần nữa tôi muốn nhấn mạnh đến việc thực hiện theo tinh thần Chỉ thị 28 - CT/TW của Bộ Chính trị về Tăng cường công tác chăm sóc, giáo dục bảo vệ trẻ em đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc như Tổng Bí thư Tô Lâm đã phát biểu tại nhiều hội nghị trung ương, là chúng ta đang chuẩn bị đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới. Muốn bước vào kỷ nguyên mới thì phải có nguồn nhân lực có chất lượng, mà nguồn nhân lực có chất lượng thì phải bắt đầu từ trẻ em...