Cần cơ chế, chính sách đột phá phát triển năng lượng

Ông Trần Hoài Trang, Phó cục trưởng Cục Điện lực (Bộ Công thương) cho biết, Dự thảo Nghị quyết về các cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026-2030 được Chính phủ trình Quốc hội lần này tập trung vào việc tạo ra những cơ chế, chính sách thực sự đột phá nhằm thúc đẩy phát triển năng lượng, bảo đảm đủ điện cho nhu cầu phát triển kinh tế và mục tiêu tăng trưởng GDP trong giai đoạn tới.

Ông Trần Hoài Trang, Phó cục trưởng Cục Điện lực (Bộ Công thương)

Ông Trần Hoài Trang, Phó cục trưởng Cục Điện lực (Bộ Công thương)

Tốc độ phát triển năng lượng điện phải gấp đôi tăng trưởng GDP để bảo đảm đủ điện. Năm 2020, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Vậy đến nay, kết quả triển khai ra sao, thưa ông?

Triển khai Nghị quyết 55-NQ/TW, ngành năng lượng nói chung, điện năng nói riêng đã duy trì tăng trưởng ổn định, cơ bản bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cho phát triển nhanh và bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống người dân. Tuy vậy, ngành năng lượng vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Một số hạn chế, yếu kém đã được chỉ ra trong Nghị quyết 55-NQ/TW vẫn chưa được khắc phục triệt để, nhiều chỉ tiêu đặt ra có thể nói là khó đạt được nếu không có cơ chế, chính sách đột phá, vượt trội.

Có thể nói, thể chế, chính sách, công tác quản lý phát triển ngành năng lượng còn bất cập; tiến độ thực hiện nhiều dự án điện còn chậm; tiềm năng về năng lượng chưa được khai thác hiệu quả. Nguồn cung năng lượng còn phụ thuộc vào nhập khẩu, nguy cơ thiếu điện cho giai đoạn tăng trưởng 2 con số là hiện hữu; cơ sở hạ tầng còn thiếu và chưa đồng bộ...

Mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh (Quyết định 2233/QĐ-TTg năm 2020) với mục tiêu củng cố, phát triển, mở rộng thị trường bán buôn điện cạnh tranh, tạo tiền đề vững chắc để chuyển đổi sang giai đoạn thị trường bán lẻ điện cạnh tranh hoàn chỉnh theo lộ trình, nhưng thị trường năng lượng cạnh tranh phát triển chưa đồng bộ, thiếu liên thông giữa các phân ngành, nhất là thị trường điện còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, chính sách giá năng lượng còn bất cập, chưa thực sự phù hợp với cơ chế thị trường, vẫn còn tình trạng bù chéo giá điện đối với một số nhóm khách hàng.

Đó cũng là lý do Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 70-NQ/TW để thay thế, thưa ông?

Đảng, Chính phủ, Quốc hội đã thống nhất đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn tới ở mức 2 con số (cao nhất từ trước đến nay). Chắc chắn, nền kinh tế không thể tăng trưởng cao khi năng lượng không đáp ứng đủ nhu cầu, đặc biệt là điện năng. Để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong thời gian tới, nhất là thực hiện mục tiêu chiến lược đến năm 2030 và năm 2045, công tác bảo đảm an ninh năng lượng có vai trò đặc biệt quan trọng, năng lượng phải đi trước một bước, đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân.

Nhiều mục tiêu, yêu cầu đặt ra trong Nghị quyết 55-NQ/TW không còn bảo đảm trong bối cảnh, tình hình và mục tiêu đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Vì vậy, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Nghị quyết 70-NQ/TW yêu cầu phải bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, là nền tảng, tiền đề quan trọng để phát triển đất nước, là bộ phận quan trọng của an ninh quốc gia. Phát triển năng lượng được ưu tiên cao nhất để đáp ứng yêu cầu tăng trưởng liên tục trên 10% trong giai đoạn tới. Phát triển năng lượng phải phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng thị trường năng lượng đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch, đa dạng hóa hình thức sở hữu và phương thức kinh doanh; áp dụng giá thị trường đối với mọi loại hình năng lượng, không bù chéo giữa các nhóm khách hàng. Đặc biệt là khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế, nhất là khu vực tư nhân tham gia phát triển năng lượng; bảo đảm kinh tế tư nhân cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong phát triển các dự án năng lượng.

“Điện phải đi trước một bước”, muốn GDP tăng trưởng 2 con số thì điện phải tăng gấp đôi tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thưa ông, xử lý những vướng mắc trên bằng cách nào?

Về hệ thống luật pháp, Bộ Công thương đã nhận diện một số điểm nghẽn, nút thắt pháp lý liên quan phát triển ngành điện nằm trong nhiều luật, nhất là Luật Điện lực, Luật Đất đai, Luật Tài nguyên, Luật Xây dựng...

Các luật này đang có những điểm chưa đồng bộ liên quan đến chủ đầu tư phát triển nguồn điện, lưới điện, tạo thành điểm nghẽn, ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thực hiện Quy hoạch Điện VIII. Đơn cử, Luật Quy hoạch không cho phép điều chỉnh cục bộ quy hoạch, mà chỉ cho phép điều chỉnh theo kỳ 5 năm/lần. Dự án điện liên quan đến nhiều vấn đề, ví dụ chủ đầu tư chậm tiến độ cần phải điều chỉnh kịp thời, nhưng phải đợi kỳ điều chỉnh quy hoạch theo Luật Quy hoạch, dẫn tới chậm điều chỉnh.

Quốc hội vừa thông qua Nghị quyết về Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội năm 2026, trong đó nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện đồng bộ thể chế và tháo gỡ kịp thời các điểm nghẽn. Ông có cho rằng liệu những vướng mắc trong các luật liên quan sẽ sớm được tháo gỡ?

Các luật hiện hành dù sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc ban hành mới là luật chung, nên không thể quy định riêng những chương mục, điều khoản cho ngành điện, trong khi quy hoạch, đầu tư, phát triển điện năng cho giai đoạn tăng trưởng kinh tế 2 con số cần văn bản pháp luật chuyên ngành.

Tại Kỳ họp Quốc hội lần này, Chính phủ trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua Dự thảo Nghị quyết về các cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026-2030 để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho ngành điện nằm ngoài quy định của các luật liên quan. Như cho phép doanh nghiệp nhà nước và tư nhân có thực lực, điều kiện tài chính đầu tư vào dự án điện, được hưởng các cơ chế, chính sách vượt trội; phân cấp cho UBND cấp tỉnh chấp thuận đầu tư dự án điện; nhà đầu tư có đủ năng lực tài chính và kinh nghiệm được thực hiện dự án điện năng quan trọng, cấp bách, mà không cần phải hoàn thiện đầy đủ hồ sơ, quy trình, thủ tục như các dự án khác.

Nói tóm lại, nếu được Quốc hội thông qua, các dự án điện có thể đầu tư, vận hành, khai thác được ngay, thay vì mất thêm 2-3 năm chờ đợi làm đầy đủ các quy trình, thủ tục, hồ sơ, nhất là thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Tất nhiên, bên cạnh việc tạo thuận lợi, hỗ trợ, áp dụng các cơ chế, chính sách vượt trội, Nghị quyết cũng có quy định xử lý nghiêm khắc đối với chủ đầu tư chây ì, không thực hiện dự án điện.

Với hàng triệu km2 mặt biển, Việt Nam có rất nhiều lợi thế phát triển điện gió. Thưa ông, các chính sách mới có khuyến khích phát triển điện gió ngoài khơi?

Về cơ bản, thủy điện đã khai thác hết; điện than hạn chế sử dụng vì liên quan đến môi trường; nhiệt điện khí thì giá thành cao, vì vậy, cần phải tập trung phát triển các nguồn điện năng khác. Ngoài điện nguyên tử, cần phải ưu tiên phát triển năng lượng xanh, năng lượng tái tạo. Trong đó, với lợi thế hàng triệu km2 mặt biển, miền Trung nắng gió quanh năm, Việt Nam cần phải phát triển nguồn năng lượng vô tận này.

Chúng tôi đề xuất, đối với dự án điện gió ngoài khơi xuất khẩu điện, được miễn, giảm tiền thuê mặt biển, tiền thuê đất. Dự án điện gió ngoài khơi sản xuất điện phục vụ nhu cầu điện trong nước, ngoài việc được hưởng cơ chế, chính sách như dự án điện gió ngoài khơi xuất khẩu điện, còn được hưởng nhiều cơ chế ưu đãi đặc thù. Đặc biệt, dự án cung cấp điện cho hệ thống điện quốc gia có công suất 6.000 MW đã được phê duyệt tại Quy hoạch Phát triển điện lực trong giai đoạn đến năm 2030 được áp dụng mức giá tối đa của khung giá phát điện áp dụng cho loại hình điện gió ngoài khơi.

Mạnh Bôn

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/can-co-che-chinh-sach-dot-pha-phat-trien-nang-luong-d435571.html