Cần chấp nhận rủi ro trong hoạt động KH-CN và đổi mới sáng tạo
Ủy ban Khoa học - Công nghệ - Môi trường của Quốc hội tán thành về quy định chấp nhận rủi ro trong hoạt động KH-CN-ĐMST, tuy nhiên cần bổ sung quy định để phân biệt với lỗi chủ quan hoặc vi phạm đạo đức nghiên cứu.
Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 9, sáng 6.5, Quốc hội nghe tờ trình và báo cáo thẩm tra về dự án Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH-CN-ĐMST).
Trình bày tờ trình, Phó thủ tướng Lê Thành Long cho biết trong hơn 10 năm qua, Luật KH-CN năm 2013 đã phát huy vai trò quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý cơ bản và quan trọng cho việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH-CN.
Tuy nhiên, quá trình triển khai thi hành Luật KH-CN năm 2013 cho thấy pháp luật hiện hành còn có những nội dung chưa phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi từ thực tiễn để phát triển KH-CN, phát triển kinh tế - xã hội.
Dự thảo Luật KH-CN-ĐMST gồm 8 chương và 83 điều (tăng 2 điều so với Luật KH-CN năm 2013 do bổ sung nội dung ĐMST và cấu trúc lại luật nên về hình thức có nhiều thay đổi so với luật hiện hành.

Phó thủ tướng Lê Thành Long
Dự thảo Luật KH-CN-ĐMST quy định về hoạt động của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực KH-CN-ĐMST; các biện pháp bảo đảm phát triển Luật KH-CN và thúc đẩy ĐMST; quy định về quản lý nhà nước đối với KH-CN-ĐMST nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển bền vững.
Các chính sách nổi bật như đổi mới hoạt động nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo, quản lý nhà nước về KH-CN-ĐMST; phát triển tiềm lực KH-CN; thu hút đầu tư, tạo thuận lợi sử dụng ngân sách cho KH-CN-ĐMST; thúc đẩy hoạt động KH-CN-ĐMST trong doanh nghiệp và phát triển thị trường KH-CN; tăng cường phổ biến tri thức KH-CN. Luật KH-CN-ĐMST đã bổ sung chính sách liên quan đến hành lang pháp lý cho hoạt động khởi nghiệp sáng tạo.
Dự thảo luật được thiết kế theo nguyên tắc giảm thủ tục hành chính, tăng cường hậu kiểm, chuyển đổi số toàn diện trong công tác quản lý và hoạt động KH-CN-ĐMST; thay đổi tư duy quản lý theo hướng quản lý hiệu quả, không quản lý quá trình. Thu hút nguồn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước cho KH-CN thông qua việc khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, tài trợ kinh phí cho nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ.
Chấp nhận rủi ro trong hoạt động KH-CN-ĐMST
Thay mặt cơ quan thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học - Công nghệ - Môi trường Lê Quang Huy đề nghị bám sát hơn nữa và thể chế hóa đầy đủ tinh thần của Nghị quyết số 57-NQ/TW; thể hiện rõ nét hơn vai trò của doanh nghiệp, khu vực kinh tế tư nhân, “chủ thuyết” phát triển trong lĩnh vực KH-CN-ĐMST; có quy định mang tính đột phá, vượt trội; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đơn giản hóa thủ tục hành chính; chú trọng chính sách kiến tạo phát triển đồng bộ với quản lý theo cơ chế phù hợp.
Ủy ban tán thành với quy định chấp nhận rủi ro trong hoạt động KH-CN-ĐMST (điều 9); cần bổ sung quy định để phân biệt với lỗi chủ quan hoặc vi phạm đạo đức nghiên cứu; bổ sung nguyên tắc nhằm giảm thiểu tối đa rủi ro, tránh lạm dụng.
Ông Huy cũng nhất trí với sự cần thiết và cơ bản thống nhất với nội dung quy định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (từ điều 20 đến điều 23) nhưng cần thiết kế mang tính nguyên tắc chung, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
Cơ quan này cũng tán thành với quy định phân chia lợi nhuận từ thương mại hóa kết quả thực hiện nhiệm vụ KH-CN-ĐMST sử dụng ngân sách nhà nước (điều 28) và đề nghị nghiên cứu chỉnh lý theo hướng cần xác định khung tỷ lệ phân chia cụ thể, khuyến khích cơ chế tự thỏa thuận quy định trong hợp đồng và có thể dựa trên tỷ lệ vốn góp.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học - Công nghệ - Môi trường Lê Quang Huy phát biểu
Ông Huy cho rằng doanh nghiệp là động lực chính thúc đẩy ĐMST, cung cấp nguồn lực tài chính, nhân lực cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) và đưa sản phẩm, công nghệ mới ra thị trường, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Do đó, cần rà soát việc gắn kết đồng bộ, thống nhất với các quy định về đầu tư, tài chính, nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng hệ sinh thái và phát triển thị trường KH-CN-ĐMST để bảo đảm tính khả thi.
Về tổ chức KH-CN-ĐMST, một số ý kiến đề nghị cân nhắc việc không tiếp tục quy định “viện hàn lâm” là một hình thức tổ chức KH-CN; nghiên cứu, bổ sung quy định về việc xây dựng và thúc đẩy các trung tâm nghiên cứu liên ngành, tích hợp khoa học xã hội – nhân văn với khoa học tự nhiên và kỹ thuật, vì hiện nay đã trở thành động lực trung tâm của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo bền vững.
Ủy ban đề nghị cần làm rõ vị trí pháp lý của cơ sở giáo dục đại học với tư cách tổ chức KH-CN, phân biệt rõ với các tổ chức KH-CN trực thuộc, bảo đảm thống nhất với Luật Giáo dục đại học.
Về phát triển nhân lực, nhân tài KH-CN-ĐMST, ông Huy đề nghị nghiên cứu quy định về xây dựng chương trình đào tạo nhân lực nghiên cứu trình độ cao và kỹ năng công nghệ mới, có cơ chế luân chuyển nhà khoa học giữa viện - trường - doanh nghiệp, cơ chế thu hút chuyên gia quốc tế và chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài tham gia các chương trình, dự án, đề án, nhiệm vụ KH-CN-ĐMST mang tầm chiến lược.
Ngoài ra, cần rà soát, nghiên cứu bổ sung quy định về tiêu chí chuyên gia, nhân tài; quy định đầy đủ, phù hợp về quyền, nghĩa vụ nhất là tự chủ về chuyên môn, nhân sự và tài chính. Cần có quy định khuyến khích triển khai chương trình giáo dục STEM, STEAM; có chính sách thúc đẩy xây dựng văn hóa sáng tạo.
Về tài chính cho KH-CN-ĐMST, ông Huy cho rằng cần rà soát, bổ sung các quy định để thu hút, khơi thông nguồn vốn đầu tư từ cộng đồng, xã hội và từ khu vực tư nhân. Theo đó, phải nghiên cứu, hoàn thiện quy định liên quan đến các quỹ; bổ sung quy định việc kết nối, liên thông, phối hợp, đối ứng giữa các quỹ bộ, ngành, địa phương với Quỹ phát triển KH-CN quốc gia nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, tránh manh mún, dàn trải.
Dự thảo luật giao quyền tự chủ cho tổ chức nghiên cứu, chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu và đánh giá hiệu quả cuối cùng của nghiên cứu. Theo đó, cơ sở nghiên cứu được tự chủ, tự chịu trách nhiệm triển khai các hoạt động nghiên cứu, xây dựng bộ máy, chi tiêu theo cơ chế khoán chi.
Nếu một dự án nghiên cứu không đạt được kết quả như kỳ vọng, tổ chức nghiên cứu sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường như trước và được miễn trừ trách nhiệm dân sự đối với những thiệt hại phát sinh cho Nhà nước trong quá trình thực hiện nghiên cứu.
Những tổ chức hoạt động hiệu quả sẽ được ưu tiên cấp thêm kinh phí để tiếp tục phát triển. Ngược lại, những tổ chức hoạt động kém hiệu quả sẽ bị cắt giảm nguồn lực, thậm chí giải thể.
Theo lý giải của Chính phủ, việc giao tự chủ cho tổ chức nghiên cứu, chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu không có nghĩa là buông lỏng trách nhiệm, mà để tạo cơ chế linh hoạt hơn để khuyến khích đổi mới. Sự dám chấp nhận rủi ro sẽ tạo động lực cho các nhà khoa học theo đuổi những vấn đề thách thức, đưa khoa học tiến xa hơn và mang lại những đột phá quan trọng.