Cách tỷ phú Warren Buffett kiếm tiền từ Coca-Cola

Năm 1938 Coca-Cola đã bán 207 triệu chai nước giải khát và vào năm 1993 công ty này đã bán được khoảng 10,7 tỷ chai.

Đúng vậy, cuộc cạnh tranh đã diễn ra vào năm 1938 và cả năm 1993. Nhưng đáng chú ý là vào năm 1938, Coca-Cola đã bán 207 triệu chai nước giải khát (nếu dung tích tính bằng galon của nó lúc đó được chuyển đổi thành các chai 192 ounce ngày nay) và vào năm 1993 công ty này đã bán được khoảng 10,7 tỷ chai, gấp 50 lần về khối lượng so với năm 1938, dù số lượng năm 1938 đã đưa nó lên vị trí đầu bảng trong ngành.

Đối với một nhà đầu tư vào năm 1938 thì có vẻ như bữa tiệc vẫn chưa tàn: Mặc dù 40 đô-la đầu tư vào một cổ phần năm 1919 (với cổ tức tái đầu tư) đã biến thành 3.277 đô-la vào cuối năm 1938, thế nhưng 40 đô-la đầu tư vào cổ phiếu Coca-Cola vào 1938 đã tăng lên đến 25.000 đô-la vào cuối năm 1993.

 Ảnh minh họa. Nguồn: History Oasis.

Ảnh minh họa. Nguồn: History Oasis.

Tôi không thể cưỡng lại việc đưa thêm một trích dẫn từ bài viết năm 1938 đó của Fortune: “Thật khó để nêu tên một công ty nào có cùng quy mô với Coca-Cola có thể làm được những gì mà Coca-Cola đã làm - bán một sản phẩm không đổi và đạt được kỷ lục 10 năm như họ.” Trải qua 55 năm kể từ khi đó, dòng sản phẩm Coke đã mở rộng hơn thế, nhưng đáng chú ý là lời nhận xét trên vẫn phù hợp.

Từ lâu, Charlie và tôi đã quyết định rằng trong cả cuộc đời đầu tư, thật quá khó để đưa ra hàng trăm quyết định thông minh. Đánh giá đó đã trở nên thuyết phục hơn bao giờ hết khi vốn của Berkshire gia tăng mạnh và thế giới đầu tư, vốn có thể ảnh hưởng đáng kể đến kết quả của chúng tôi, đã sụt giảm nhanh chóng.

Do đó, chúng tôi áp dụng một chiến lược đòi hỏi thông minh của chúng tôi chỉ trong một vài lần. Thật vậy, bây giờ chúng tôi chỉ dừng lại ở mức mỗi năm một ý tưởng tuyệt vời. (Charlie nói lần này tới lượt tôi.)

Chiến lược được chúng tôi lựa chọn loại trừ những giáo điều đa dạng hóa tiêu chuẩn sau đó của chúng tôi. Nhiều chuyên gia vì đó mà cho rằng chiến lược này hẳn phải rủi ro hơn so với chiến lược của các nhà đầu tư truyền thống. Chúng tôi không thấy vậy.

Chúng tôi tin rằng chính sách danh mục đầu tư tập trung có thể giảm thiểu những rủi ro nếu nó làm gia tăng, như nó nên làm, cả cường độ mà một nhà đầu tư nghĩ về một doanh nghiệp và mức độ hài lòng anh ta phải cảm thấy với các đặc điểm kinh tế của nó trước khi quyết định mua. Khi đưa ra quan điểm này, chúng tôi xác định thuật ngữ “rủi ro”, sử dụng thuật ngữ từ điển, giống như “khả năng xảy ra mất mát hay hư hại”.

Tuy nhiên, giới học thuật thích định nghĩa “rủi ro” đầu tư theo cách khác, họ khẳng định rằng nó là sự biến động tương đối của cổ phiếu hay của danh mục cổ phiếu, với ý nghĩa là biến động của chúng được so sánh với sự biến động của một thị trường rất lớn của các cổ phiếu.

Sử dụng cơ sở dữ liệu và các kỹ năng thống kê, những nhà học thuật này tính toán với độ chính xác của chỉ số “beta” của một cổ phiếu, tức là biến động tương đối trong quá khứ, và sau đó xây dựng các lý thuyết đầu tư và phân bổ nguồn vốn rất bí hiểm xung quanh tính toán này. Tuy nhiên, trong cơn thèm khát về một thống kê duy nhất để đo lường rủi ro, họ quên một nguyên tắc cơ bản: Gần đúng vẫn tốt hơn là chính xác nhưng sai.

Đối với chủ sở hữu của một doanh nghiệp - và đó là cách mà chúng tôi nghĩ về các cổ đông - định nghĩa về rủi ro của giới học thuật hầu như không đúng, đến nỗi nực cười. Ví dụ, theo như cơ sở lý thuyết beta, một cổ phiếu bị giảm giá rất mạnh so với thị trường, giống như cổ phiếu của Washington Post khi chúng tôi mua nó vào năm 1973, trở nên “rủi ro hơn” khi có mức giá thấp hơn là khi có mức giá cao hơn. Vậy mô tả đó khi ấy còn có ý nghĩa gì với một người được đề nghị mua lại toàn công ty với một mức giá đã giảm rất sâu?

Lawrence A.Cunningham/Alpha Books – NXB Lao Động

Nguồn Znews: https://znews.vn/cach-ty-phu-warren-buffett-kiem-tien-tu-coca-cola-post1517279.html
Zalo