Các di sản văn hóa có gì xáo trộn sau khi sáp nhập tỉnh, thành, xã, phường?
Việc sáp nhập các tỉnh, thành đang đặt ra câu hỏi liên quan đến 'số phận' của các di sản văn hóa cấp quốc gia, bao gồm di sản vật thể và phi vật thể. Sự thay đổi về địa giới hành chính có thể kéo theo những điều chỉnh trong công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.


Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) đã ban hành văn bản số 1445 /BVHTTDL-DSVH (ngày 7/4/2025) về việc rà soát, điều chỉnh và thực hiện xác định đơn vị hành chính hình thành sau sắp xếp có di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, di tích quốc gia đặc biệt.
Đối với lĩnh vực di sản văn hóa, Bộ yêu cầu giữ nguyên tên gọi các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, di tích quốc gia đặc biệt, di tích quốc gia, di tích cấp tỉnh/thành phố đã được công nhận, xếp hạng để không làm thay đổi yếu tố gốc cấu thành di tích cũng như giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học của di tích theo quy định của Luật Di sản văn hóa và Công ước năm 1972 về việc bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới của UNESCO. Đồng thời, cập nhật địa danh gắn với di tích theo ĐVHC mới được sắp xếp.
Bên cạnh đó, rà soát, điều chỉnh tên gọi, địa danh, địa chỉ mới của tổ chức, Ban/Trung tâm quản lý di tích có liên quan trực tiếp đến đơn vị hành chính hình thành sau sắp xếp. Tuân thủ các quy định của pháp luật về di sản văn hóa và các Điều ước quốc tế tại các Công ước của UNESCO mà Việt Nam đã ký kết liên quan đến di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, di tích lịch sử quốc gia đặc biệt.
Đối với di sản văn hóa phi vật thể, Bộ yêu cầu giữ nguyên tên gọi di sản để không làm thay đổi giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học của di sản; rà soát hồ sơ khoa học của di sản để thống nhất phạm vi phân bố, lan tỏa của di sản để có cơ sở quản lý theo thẩm quyền; tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam về di sản văn hóa phi vật thể và Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO.

Theo PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Đại biểu Quốc hội khóa XV, Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, việc sáp nhập tỉnh, thành là một quyết định lớn về hành chính nhưng có tác động sâu sắc đến không gian văn hóa – nơi các di sản vật thể và phi vật thể vẫn đang âm thầm gìn giữ ký ức, bản sắc và chiều sâu tinh thần của mỗi vùng đất. Chẳng hạn, một lễ hội truyền thống từng là điểm nhấn của một tỉnh, một loại hình nghệ thuật từng là niềm tự hào của một địa phương, một di tích từng được ưu tiên tu bổ vì vai trò biểu tượng của nó, giờ đây, trong một không gian hành chính lớn hơn, có thể sẽ phải “chia sẻ ánh sáng” với những di sản khác, thậm chí có nguy cơ bị “chìm khuất” nếu không có sự quan tâm đúng mức.

Ông Bùi Hoài Sơn cho rằng, các di sản văn hóa quốc gia gắn với địa danh cụ thể, khi sáp nhập tỉnh, thành cần cập nhật lại hồ sơ khoa học cẩn trọng, có trách nhiệm và đầy đủ cả về mặt pháp lý lẫn văn hóa. “Hồ sơ khoa học của di sản văn hóa không đơn thuần là tập hợp tư liệu hành chính, còn là bản khai sinh – là “chứng minh thư” văn hóa – gắn liền với tên gọi, tọa độ địa lý, lịch sử hình thành và mối quan hệ cộng đồng của di sản đó. Khi tên địa danh thay đổi do sáp nhập tỉnh, thành, nếu hồ sơ không được điều chỉnh kịp thời, nguy cơ sai lệch trong tra cứu, khó khăn trong công tác quản lý, cũng như gián đoạn trong các thủ tục bảo tồn, phục hồi hay đề cử quốc tế là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
“Việc cập nhật hồ sơ không chỉ là sửa địa chỉ trong văn bản, còn phải chú thích đầy đủ tên cũ – tên mới, quá trình thay đổi, giá trị lịch sử – văn hóa của địa danh cũ. Đó cũng là cách để bảo tồn ký ức vùng đất trong lòng di sản, để khi mở lại hồ sơ sau hàng chục năm, vẫn có thể hình dung cả một bối cảnh văn hóa đã từng tồn tại”, ông Bùi Hoài Sơn cho hay.
Ngoài ra, việc cập nhật hồ sơ chính xác, kịp thời là cơ sở để các tổ chức quốc tế như UNESCO hay các đối tác hợp tác văn hóa quốc tế công nhận tính liên tục của di sản, giúp chúng ta bảo vệ quyền lợi và danh tiếng của quốc gia trên trường quốc tế. Đó cũng là hành động thể hiện sự tôn trọng với quá khứ, trong hành trình xây dựng tương lai.

Việc sáp nhập tỉnh, thành kéo theo những thay đổi tất yếu trong cơ cấu bộ máy, trong phân cấp, phân quyền, trong cách thức phối hợp giữa các địa phương và công tác quản lý di sản văn hóa không nằm ngoài dòng chảy ấy.
Theo ĐBQH Bùi Hoài Sơn, trước hết, hệ thống tổ chức quản lý di sản, từ cấp tỉnh đến huyện, sẽ phải được sắp xếp lại. Có thể các phòng ban chuyên môn bị hợp nhất, các trung tâm bảo tồn di tích được sáp nhập, đội ngũ cán bộ quản lý bị điều chuyển, số lượng bị tinh giản...
Thứ hai, việc sáp nhập buộc công tác quản lý di sản phải chuyển từ tư duy “quản lý theo địa giới” sang tư duy “quản lý theo cụm giá trị văn hóa”. Đây là cơ hội để xây dựng các chiến lược liên vùng, phát triển mạng lưới di sản theo tuyến, theo không gian sinh thái, từ đó tạo thành những bản đồ di sản mới có sức hút mạnh mẽ hơn, không chỉ gói gọn trong phạm vi hành chính cũ.
Cuối cùng, thay đổi lớn nhất trong việc công tác quản lý di sản văn hóa sau khi sáp nhập tỉnh, thành là đây không chỉ là việc của một địa phương, còn là bài toán chung của một hệ thống hành chính mới, nơi sự đồng thuận, phân vai hợp lý, chia sẻ nguồn lực và áp dụng công nghệ số sẽ là chìa khóa để đảm bảo tính liên tục, bền vững và hiệu quả của công tác bảo tồn.

Sau khi sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh, công tác tu bổ, phục hồi và bảo tồn di tích văn hóa có thể đối mặt với không ít khó khăn, không chỉ là thủ tục hay tài chính, còn đến từ những xáo trộn trong nhận thức, cơ chế và phản ứng của cộng đồng.
Theo PGS.TS Bùi Hoài Sơn, một trong những khó khăn đầu tiên là sự chồng chéo hoặc gián đoạn trong thủ tục hành chính và thẩm quyền phê duyệt. Có những di tích đang trong quá trình tu bổ dang dở, hồ sơ đã được lập, kinh phí đã có chủ trương phân bổ nhưng khi sáp nhập, đơn vị chủ quản thay đổi, quy trình xét duyệt lại bị lùi lại từ đầu, vì hồ sơ phải điều chỉnh địa danh, người chịu trách nhiệm, thậm chí cả quy hoạch vùng. Trong lúc chờ, công trình xuống cấp thêm, chi phí tăng lên và lòng tin của cộng đồng bị xói mòn.
“Tiếp theo là vấn đề đội ngũ nhân lực bị xáo trộn. Các trung tâm bảo tồn hoặc ban quản lý di tích có thể bị sáp nhập, nhân sự thay đổi, chuyên gia có kinh nghiệm lâu năm bị điều chuyển hoặc nghỉ hưu, trong khi người mới chưa hiểu rõ bối cảnh di sản mình quản lý. Sự đứt gãy trong dòng tri thức này là nguy cơ lớn, vì tu bổ di tích không chỉ là kỹ thuật, đó là một hành vi văn hóa cần hiểu biết, cảm xúc và sự gắn bó lâu dài”, ông Bùi Hoài Sơn nêu quan điểm.
Để vượt qua những khó khăn này, ông Bùi Hoài Sơn cho rằng điều quan trọng là cần một chiến lược bảo tồn toàn diện, có sự tiếp nối từ cơ sở, có bản đồ di sản thống nhất, đặc biệt là lắng nghe tiếng nói của cộng đồng – những người vẫn gìn giữ từng viên gạch, mái đình, nét chữ sắc phong từ đời ông cha để lại.

Trả lời câu hỏi về việc sáp nhập tên tỉnh, thành liệu có gây khó khăn trong việc nhận diện, quảng bá các di sản văn hóa gắn với địa danh cũ, PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho rằng điều này chắc chắn sẽ xảy ra.
“Khi địa danh thay đổi, cái tên mới, dù hợp lý đến đâu về mặt hành chính, vẫn cần một khoảng thời gian để được thừa nhận về mặt cảm xúc. Trong khi đó, những di sản cũ như làng Quan họ Bắc Ninh, nhã nhạc cung đình Huế, đờn ca tài tử Nam Bộ, hay Lễ hội Gióng ở Hà Nội… đã đi sâu vào nhận diện công chúng. Việc gắn di sản với một địa danh mới chưa có dấu ấn văn hóa riêng hoặc quá xa lạ với người dân và du khách, có thể khiến giá trị nhận diện bị mờ nhòe, giảm sức hút, thậm chí gây hiểu nhầm”, ông Bùi Hoài Sơn nêu quan điểm.

Các di sản văn hóa: Ca trù, Đờn ca tài tử Nam Bộ, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Quan họ Bắc Ninh

Tuy nhiên, vị ĐBQH cho rằng đây cũng là cơ hội để đổi mới cách quảng bá di sản văn hóa bằng cách xây dựng hình ảnh “vùng văn hóa liên tỉnh”, nơi nhiều di sản độc đáo cùng tỏa sáng trong một không gian chung. Để làm được điều đó, cần một chiến lược truyền thông bài bản, trong đó tên gọi mới không lấn át, mà nâng đỡ các địa danh cũ, để tạo ra một “câu chuyện lớn” hấp dẫn hơn. Thay vì xóa bỏ tên cũ, hãy giữ chúng lại như những “địa chỉ văn hóa” bên trong tỉnh mới, có thể thông qua các tuyến du lịch di sản, các sản phẩm truyền thông bản địa, hoặc các lễ hội quy mô vùng.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn cũng bày tỏ trăn trở về việc giữ gìn bản sắc riêng của mỗi di sản văn hóa sau khi sáp nhập tỉnh, thành. Đây là nỗi trăn trở sâu sắc không chỉ của những người làm văn hóa, mà còn của hàng triệu người dân gắn bó máu thịt với từng mái đình, lễ hội, làn điệu, tập tục trên quê hương mình.
“Tuy nhiên, điều đáng sợ không phải là việc sáp nhập tỉnh, thành mà là cách chúng ta ứng xử với bản sắc sau sáp nhập. Nếu chính quyền mới chỉ tập trung vào phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, quên đi việc đầu tư cho văn hóa, thì nguy cơ ‘hòa tan’ các giá trị đặc trưng là rất lớn. Nếu không có chính sách bảo tồn cụ thể, không có sự tiếp nối trong đội ngũ làm văn hóa ở cơ sở, không có tiếng nói của cộng đồng sở hữu di sản trong quá trình tái cấu trúc, thì từng giá trị sẽ dần bị bào mòn và bản sắc riêng sẽ mờ dần theo năm tháng”, ông Bùi Hoài Sơn bày tỏ.
Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội nhấn mạnh nếu chúng ta biết trân trọng sự khác biệt, biết lắng nghe lịch sử, biết đầu tư cho từng giá trị riêng biệt của di sản văn hóa, sáp nhập tỉnh, thành có thể trở thành một cơ hội hiếm có để liên kết di sản, làm phong phú bản sắc vùng, xây dựng những bản đồ văn hóa sống động hơn, từ đó tạo ra những “thương hiệu di sản” tầm khu vực, quốc gia, thậm chí quốc tế.