Bộ Công an lý giải những đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ

Bộ Công an chủ trì xây dựng và hoàn thành dự án Luật sửa đổi, bổ sung 10 luật về quản lý hành chính liên quan đến hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của lực lượng CAND để lấy ý kiến đóng góp của cơ quan tổ chức, cá nhân. Tại dự thảo Luật, Bộ Công an đã đề xuất sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Sửa đổi quy định về phương tiện giao thông thông minh

Cụ thể, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 34 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ như sau: "Phương tiện giao thông thông minh là xe cơ giới cho phép tự động hóa toàn bộ hoạt động điều khiển phương tiện, xác định lộ trình và xử lý tình huống khi tham gia giao thông đường bộ".

Dự thảo Luật đã đề xuất sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Dự thảo Luật đã đề xuất sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ.

Theo quy định tại khoản 4, Điều 34 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ thì phương tiện giao thông thông minh là xe cơ giới cho phép tự động hóa một phần hoặc toàn bộ điều khiển phương tiện, xác định lộ trình và xử lý tình huống khi tham gia giao thông đường bộ.

Về lý do sửa đổi, bổ sung, cơ quan chủ trì soạn thảo cho biết, căn cứ quy định tại khoản 4, khoản 6 Điều 34, khoản 7 Điều 41 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Thông tư số 53/2024/TT-BGTVT ngày 15/11/2024 quy định về phân loại phương tiện giao thông đường bộ và dấu hiệu nhận biết xe cơ giới sử dụng năng lượng sạch, năng lượng xanh, thân thiện môi trường và Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với xe ôtô QCVN 09:2024/BGTVT phù hợp với phân loại quốc tế ISO/SAE PAS 22736:2021 Phân loại và định nghĩa đối với các thuật ngữ liên quan đến hệ thống tự lái của xe cơ giới.

Theo đó, phương tiện giao thông thông minh được chia làm 5 cấp độ gồm: Xe cơ giới cho phép tự động hóa một phần hoạt động điều khiển phương tiện, xác định lộ trình và xử lý tình huống khi tham gia giao thông đường bộ là các xe thuộc cấp độ 1, cấp độ 2, cấp độ 3 theo tiêu chuẩn ISO/SAE PAS 22736:2021 (sau đây viết tắt là xe cơ giới tự động hóa một phần); xe cơ giới cho phép tự động hóa toàn bộ hoạt động điều khiển phương tiện, xác định lộ trình và xử lý tình huống khi tham gia giao thông đường bộ là các xe thuộc cấp độ 4, hoặc cấp độ 5 được phân loại và định nghĩa trong tiêu chuẩn ISO/SAE PAS 22736:2021 (sau đây viết tắt là xe cơ giới tự động hóa toàn bộ).

Thực tế hiện nay rất nhiều xe ôtô con tầm trung, cao cấp nhập khẩu và sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam đã có chức năng hỗ trợ người lái đạt cấp độ 1 và tiệm cận cấp độ 2 theo tiêu chuẩn ISO/SAE PAS 22736:2021. Do đó, theo quy định tại khoản 4 Điều 34 của Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ thì các xe này được xếp vào nhóm phương tiện giao thông thông minh và phải cấp phép hoạt động theo quy định tại khoản 3 Điều 35.

Đối với các xe cơ giới thuộc cấp độ 1, cấp độ 2, thậm chí là cấp độ 3 (tự lái có điều kiện), về cơ bản chỉ là chức năng hỗ trợ, trợ giúp người lái trong một số điều kiện, tình huống, phạm vi nhất định, không thể thay thế hoàn toàn được người lái, ví dụ như chức năng tự động giữ làn đường, giữ khoảng cách, phanh khẩn cấp, cảnh báo hoặc không cho phép chuyển làn khi có xe vượt, tự động đỗ vào vị trí để xe...

Các chức năng này giúp người lái giảm căng thẳng, mệt mỏi khi chạy đường dài, giữ khoảng cách an toàn, phát hiện sớm các nguy cơ, phản ứng nhanh trước các tình huống nguy hiểm đột ngột... nên về cơ bản là giúp tăng khả năng an toàn của xe trong khi di chuyển trên đường. Các chức năng này có thể được kích hoạt hay không phụ thuộc vào quyết định của người lái. Qua đánh giá thực trạng hoạt động trên đường thì loại xe này phù hợp để hoạt động theo điều kiện giao thông của Việt Nam hiện nay. Vì vậy, không nhất thiết phải hạn chế, cấp phép hoạt động các xe loại này.

Đối với các xe cơ giới thuộc cấp độ 4, cấp độ 5 (xe cơ giới tự động hóa toàn bộ), trên thế giới hiện nay chỉ có tại Trung Quốc thí điểm hoạt động xe taxi không người lái tại Vũ Hán, một số khu vực tại Trùng Khánh, Bắc Kinh, Thượng Hải nhưng vẫn trong giai đoạn đánh giá về độ an toàn, tin cậy, chưa phát triển đại trà được.

Một số nước phát triển khác như Hoa Kỳ, EU mới thử nghiệm xe ôtô tự lái cấp độ 4 trong một phạm vi nhất định và vẫn phải yêu cầu có người lái hoặc người giám sát trên xe. Xét theo điều kiện giao thông của Việt Nam hiện nay thì loại xe cơ giới tự động hóa toàn bộ chưa phù hợp để hoạt động, có nguy cơ gây tai nạn cao, nên cần phải hạn chế, phải cấp phép hoạt động đối với các xe loại này (bao gồm cả các xe chạy thử nghiệm thuộc đối tượng nghiên cứu phát triển có nhu cầu tham gia giao thông đường bộ).

Xe kinh doanh vận tải phải lắp thiết bị ghi nhận hình ảnh người lái xe

Cơ quan chủ trì soạn thảo cũng đã đề xuất sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 35 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ theo hướng bổ sung quy định xe kinh doanh vận tải phải lắp thiết bị ghi nhận hình ảnh người lái xe; xe vận tải nội bộ phải lắp thiết bị giám sát hành trình và thiết bị ghi nhận hình ảnh người lái xe.

Về lý do, cơ quan chủ trì soạn thảo cho biết, quy định xe ôtô kinh doanh vận tải, xe vận tải nội bộ phải lắp thiết bị giám sát hành trình và thiết bị ghi nhận hình ảnh người lái xe nhằm bảo đảm cho phương tiện kinh doanh vận tải được quản lý chặt chẽ hơn, phục vụ công tác phòng ngừa, phát hiện các vi phạm trật tự an toàn xã hội trên phương tiện giao thông đường bộ, như: Giám sát việc chấp hành pháp luật về trật tự, an toàn giao thông của người lái xe (sử dụng điện thoại, thiết bị điện tử khi lái xe, chở quá số người quy định, không thắt dây đai an toàn, buông cả 2 tay khỏi vô lăng, dùng chân điều khiển vô lăng,…); phát hiện các hành vi vi phạm về trật tự, an toàn xã hội (hành hung giữa hành khách và lái xe,…), truy tìm tội phạm được chở trên xe ôtô kinh doanh vận tải.

Dự thảo Luật cũng đã sửa đổi, bổ sung điểm g khoản 1 Điều 57 Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ theo hướng bỏ quy định người có giấy phép lái xe hạng D1 được phép điều khiển xe của hạng C. Về lý do, hạng D1 cấp cho người lái xe ôtô chở người trên 8 chỗ (không kể chỗ của người lái xe) đến 16 chỗ (không kể chỗ của người lái xe), hạng C cấp cho người lái xe ôtô tải và ôtô chuyên dùng có khối lượng toàn bộ theo thiết kế trên 7.500kg.

Xe ôtô đến 16 chỗ có khối lượng, kích thước nhỏ hơn rất nhiều so với xe ôtô tải trên 7.500kg, ngoài ra kỹ năng điều khiển xe ôtô 16 chỗ cũng rất khác so với kỹ năng điều khiển xe ôtô tải trên 7.500kg, vì vậy quy định cho người có giấy phép lái xe hạng D1 được điều khiển xe của hạng C sẽ rất nguy hiểm, tiềm ẩn nguy cơ gây tai nạn giao thông đường bộ.

Đồng thời, sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 5 Điều 62 theo hướng bổ sung trường hợp "người được cấp giấy phép lái xe có hành vi gian dối để được cấp, đổi, cấp lại giấy phép lái xe" thì bị thu hồi giấy phép lái xe. Lý do nhằm đảm bảo quản lý chặt chẽ đối với việc cấp, đổi, cấp lại giấy phép lái xe do những năm gần đây, việc mua bán giấy phép lái xe diễn ra phổ biến và có hiện tượng sử dụng giấy phép lái xe giả để đổi, cấp lại giấy phép lái xe.

Bên cạnh đó, dự thảo Luật cũng đã sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 64 theo hướng bỏ quy định "thời gian lái xe của người lái xe ôtô không quá 48h/tuần" mà chỉnh lý theo hướng thời gian làm việc của người lái xe trong một tuần thực hiện theo quy định của Bộ luật Lao động; giữ nguyên quy định thời gian lái xe của người lái xe ôtô không quá 10h/ngày và lái xe liên tục không quá 4h.

Nguyễn Hương

Nguồn CAND: https://cand.com.vn/su-kien-binh-luan-thoi-su/bo-cong-an-ly-giai-nhung-de-xuat-sua-doi-bo-sung-luat-trat-tu-an-toan-giao-thong-duong-bo-i771306/
Zalo