'Binh chủng đặc biệt' lay động cả non sông
Trên thế giới, hiếm có dân tộc nào sở hữu thứ 'vũ khí' bảo vệ Tổ quốc độc đáo như vậy. 'Vũ khí' ấy không phải gươm giáo, đạn bom, mà là những vần thơ thấm đẫm máu và hoa, là khúc ca hùng tráng át tiếng bom đạn, là thước phim lay động trái tim, là nét vẽ kiên cường trên trang giấy… Tất cả đã tạo nên sức mạnh tinh thần phi thường, đủ sức lấn át mọi vũ khí, hun đúc ý chí, tôi luyện quyết tâm đánh thắng kẻ thù, giành lại tự do cho Tổ quốc.
Khúc tráng ca của dân tộc
Ngay từ những ngày đầu kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò to lớn của văn hóa nghệ thuật trên mặt trận tư tưởng. Người ví các văn nghệ sĩ như những chiến sĩ trên mặt trận ấy, nhấn mạnh tính chất nghiêm túc và tầm quan trọng của công việc sáng tạo trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Lời hiệu triệu ấy đã khơi dậy làn sóng mạnh mẽ trong giới văn nghệ sĩ, thôi thúc họ cầm bút, cầm đàn, cầm máy quay... để phục vụ Tổ quốc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975), văn học nghệ thuật đã trở thành một vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng, góp phần quan trọng vào thắng lợi cuối cùng của dân tộc.
Trong đó, văn học được đánh giá là sở hữu "sức mạnh của một sư đoàn". Nhà văn Phạm Duy Nghĩa cho biết, hàng trăm nhà văn, nhà thơ xung phong vào chiến trường, vừa cầm súng vừa cầm bút cống hiến trọn vẹn tuổi xuân và tài năng văn chương cho Tổ quốc. Nhiều người trong số họ đã ngã xuống với tư thế một anh hùng. Văn học góp phần khích lệ, cổ vũ cả nước ta đoàn kết thành một khối Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai (Tố Hữu).

Cảnh trong phim "Chung một dòng sông", phim điện ảnh đầu tiên của điện ảnh cách mạng Việt Nam. Ảnh: Tư liệu
Không khí hừng hực lên đường ngoài cuộc sống phả vào văn chương, kết lại và tỏa sáng thành những hình tượng mang tính biểu tượng của lòng yêu nước ở những tác phẩm trong vắt một lý tưởng cách mạng, như: Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Hòn Đất của Anh Đức, Gia đình má Bảy của Phan Tứ, Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Bài ca chim chơ-rao của Thu Bồn, Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Vầng trăng quầng lửa của Phạm Tiến Duật... Văn học đã xây dựng những nhân vật như những vầng hào quang tỏa chiếu ánh sáng lý tưởng, hướng bạn đọc đi về phía cái cao cả, anh hùng...
Âm nhạc đã "cất cánh" từ nơi mà sự sống và cái chết chỉ cách nhau gang tấc, trở thành nguồn động viên to lớn cho những người lính nơi tuyến đầu… Với phong trào Tiếng hát át tiếng bom, những giai điệu hào hùng, những ca từ sục sôi khí thế cách mạng có sức mạnh cổ vũ, động viên tinh thần to lớn cho cả tiền tuyến và hậu phương.
Hàng loạt ca khúc đã ra đời trong bối cảnh chiến tranh ác liệt: Thanh niên ba sẵn sàng (Lưu Hữu Phước) khơi dậy tinh thần xung phong của tuổi trẻ; Giặc đến nhà ta đánh (Đỗ Nhuận) thể hiện quyết tâm bảo vệ Tổ quốc; Bài ca hy vọng (Văn Ký) với niềm tin vào ngày chiến thắng; Như có Bác trong ngày đại thắng (Phạm Tuyên) vỡ òa trong niềm vui thống nhất... Các ca khúc trên đường Trường Sơn huyền thoại như Đường Trường Sơn xe anh qua (Văn Dung); Cô gái mở đường (Xuân Giao)… đã trở thành biểu tượng cho sự kiên cường và lãng mạn cách mạng. Những ca khúc này không chỉ là tiếng hát mà còn là tiếng lòng của cả dân tộc, là sức mạnh tinh thần vô giá giúp quân và dân ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ.
Những trang "nhật ký chiến trường" đặc biệt
Ngay khi ra đời, điện ảnh cách mạng đã dốc toàn lực phục vụ cuộc kháng chiến. Biết bao “chiến sĩ điện ảnh” đã không ngại vất vả, hy sinh để thực hiện những thước phim chân thực, giàu giá trị nghệ thuật… phản ánh cuộc chiến vệ quốc oai hùng. Phim điện ảnh đầu tiên của điện ảnh cách mạng Việt Nam, Chung một dòng sông (1959), gắn với đề tài chiến tranh chống đế quốc Mỹ.
Theo TS. Ngô Đặng Trà My, Phó Viện trưởng Viện Phim Việt Nam, qua thời gian, đội ngũ cán bộ điện ảnh của nền điện ảnh cách mạng Việt Nam được trang bị tốt về nền tảng tư tưởng, liên tục thâm nhập thực tế ở các vùng chiến sự ác liệt, sáng tác những bộ phim với nội dung tư tưởng sâu sắc và giàu giá trị nghệ thuật, như Nổi gió (1966), Nguyễn Văn Trỗi (1966), Đường về quê mẹ (1971), Vĩ tuyến 17 ngày và đêm (1972), Em bé Hà Nội (1974)…

Tác phẩm bột màu trên giấy "Tổ Gang thép Ấp Bắc" của họa sĩ Huỳnh Phương Đông. Ảnh: BTMTVN
Bên cạnh đội ngũ nhiếp ảnh gia trên khắp các chiến trường, bằng màu và nét, nhiều họa sĩ kịp thời ghi lại những trang nhật ký đặc biệt, về con người, cuộc sống, vùng đất và cuộc chiến tranh cam go của quân và dân Nam Bộ. Chất liệu được các họa sĩ sử dụng nhiều nhất là màu nước, bột màu, bút sắt, chì… Một số tác phẩm nổi bật như: ký họa Xuân trong hầm pháo và Nghỉ đêm trong làng của tác giả Thái Hà; Trận Bình Giã 1965 của tác giả Huỳnh Phương Đông; hai tác phẩm Trên đường vào Nam cắt tóc và Chị Quyên của tác giả Lê Lam…
Họa sĩ Lương Xuân Đoàn, Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam nhận định: Hàng ngàn ký bức họa ra đời trong thời chiến đã trở thành những minh chứng chân thực của lịch sử, thể hiện khát vọng hòa bình, sự chính nghĩa và chủ nghĩa anh hùng dân tộc của Nhân dân Việt Nam. Các nghệ sĩ đã mang lại cho chúng ta những trang sử quý bằng tranh. Những tác phẩm này có khi đã phải đánh đổi bằng sự hy sinh của các họa sĩ - chiến sĩ ở trên chiến trường…
Kết tinh rực rỡ của lòng yêu nước, khát vọng hòa bình
Giữa bão lửa chiến tranh, nơi sự sống và cái chết chỉ cách nhau gang tấc, văn hóa nghệ thuật đã trỗi dậy như một "binh chủng đặc biệt" vô hình mà sức mạnh lay động cả non sông. Không đơn thuần là tiếng kèn xung trận, lời hiệu triệu khô khan, nghệ thuật giai đoạn này chính là tiếng vọng sâu thẳm của lương tri, là kết tinh rực rỡ của lòng yêu nước sục sôi, ý chí độc lập tự cường, và khát vọng hòa bình cháy bỏng trong tim mỗi người con đất Việt.

Xe tăng của Lữ đoàn 203 tiến vào Sài Gòn trên xa lộ Biên Hòa - Sài Gòn
Sự đa dạng trong các loại hình nghệ thuật, từ văn chương, thi ca, âm nhạc, điện ảnh đến hội họa, nhiếp ảnh…, với những tên tuổi tiêu biểu, đã minh chứng cho sự huy động toàn diện của lực lượng trí thức và tâm hồn Việt Nam trên mặt trận văn hóa. Các hình thức biểu đạt phong phú, dù mỗi đóng góp mang đậm dấu ấn cá nhân nhưng đều góp một tiếng nói, tạo nên sức mạnh tổng hòa.
Nhiều văn nghệ sĩ không chỉ sáng tạo nghệ thuật mà còn trực tiếp tham gia vào cuộc chiến đấu đầy gian khổ và hiểm nguy. Sự trải nghiệm thực tế, "cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu" như nhà thơ Xuân Diệu từng viết về sự gắn bó sâu sắc giữa văn nghệ sĩ và cuộc sống chiến đấu, đã mang đến cho tác phẩm của họ sức mạnh rung động lòng người sâu sắc. Những trang văn, vần thơ, giai điệu, thước phim, bức tranh... thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả máu của cuộc chiến, trở thành những chứng nhân lịch sử hùng hồn, khắc họa một cách chân thực và cảm động cuộc chiến tranh Nhân dân vĩ đại.

Buổi biểu diễn của Đoàn văn công giải phóng tiền phương phục vụ các chiến sĩ giữa hai trận đánh
Nghệ thuật trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phục vụ chiến tranh, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta, mà còn để lại một di sản văn hóa vô cùng quý giá. Đến nay, nhiều tác phẩm nghệ thuật thời kháng chiến vẫn tiếp tục sống trong đời sống đương đại, nhắc nhở về một giai đoạn lịch sử hào hùng.