Bị phạt tù chung thân, cựu Tổng Giám đốc Công ty DCB xin giảm án
Bị tuyên án chung thân về hành vi lừa đảo, bị cáo Nguyễn Văn Chung - cựu Tổng Giám đốc Công ty DCB cho rằng mức án này là quá nặng nên đã kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Mới đây, 2 bị cáo Nguyễn Văn Chung (SN 1986), Tổng giám đốc Công ty TNHH Đo đạc - Xây dựng - Kinh doanh nhà DCB (gọi tắt là Công ty DCB) và bị cáo Nguyễn Văn Phú đã có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đây là 2 bị cáo đã lừa bán đất nên trong các "dự án ma", chiếm đoạt hơn 81,8 tỷ đồng của 49 bị hại.
![Án sơ thẩm xác định, bị cáo Nguyễn Văn Chung (bìa phải) là chủ mưu vụ lừa đảo bán đất nền, bị cáo Phú là đồng phạm giúp sức.](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_14_296_51478835/81d60bb539fbd0a589ea.jpg)
Án sơ thẩm xác định, bị cáo Nguyễn Văn Chung (bìa phải) là chủ mưu vụ lừa đảo bán đất nền, bị cáo Phú là đồng phạm giúp sức.
Trước đó, Chung và Phú bị TAND Tp.HCM đưa ra xét xử sơ thẩm vào ngày 8/1 vừa qua. Cấp sơ thẩm tuyên phạt Nguyễn Văn Chung mức án tù chung thân; Nguyễn Văn Phú bị tuyên phạt 10 năm tù giam cùng về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Ngoài mức án tù, tòa sơ thẩm còn tuyên buộc bị cáo Chung phải hoàn trả lại cho các bị hại số tiền hơn 81,8 tỷ đồng.
Theo bán án sơ thẩm, Chung là Tổng giám đốc, kiêm người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Đo đạc - xây dựng - kinh doanh nhà DCB, vốn điều lệ 100 tỷ đồng.
Từ năm 2015 - 2018, Chung sử dụng pháp nhân Công ty DCB ký kết các hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng đất, hợp đồng hợp tác kinh doanh, văn bản thỏa thuận để chuyển nhượng đất nền và thu tiền của nhiều khách hàng.
Cụ thể, trong các ngày 25 và 26/3/2018, Chung ký hợp đồng đặt cọc với bà L. (ngụ quận Bình Tân, Tp.HCM) để thỏa thuận nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất các thửa số 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, tờ bản đồ số 02 Bộ địa chính xã Bình Hưng Hòa, huyện Bình Chánh (nay là phường Bình Hưng Hòa, quận Bình Tân) của bà L..
Chung đã nộp cho bà L. 3,2 tỷ đồng tiền cọc và tự ý phân lô khu đất của L. để bán khi chưa hoàn thành việc chuyển nhượng. Biết chuyện, bà L. yêu cầu Chung đến văn phòng công chứng để hủy hợp đồng đặt cọc trên.
Ngày 20/4/2018, bà L. và Chung đã lập văn bản thỏa thuận hủy hợp đồng đặt cọc trên tại văn phòng công chứng.
Mặc dù Chung và bà L. đã hủy hợp đồng đặt cọc, các thửa đất trên là đất trồng lúa, thuộc diện quy hoạch bị thu hồi để lập dự án, chưa đủ điều kiện để tách thửa nhưng Chung vẫn tự ý phân lô khu đất trên thành nhiều lô đất nhỏ rồi rao bán, ký hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng với 27 cá nhân, chiếm đoạt 16 tỷ đồng.
Ngoài ra, Chung còn tự ý lập bản vẽ phân lô tại 8 khu đất khác, sau đó ký các hợp đồng đặt cọc hứa chuyển nhượng nền đất cho nhiều khách hàng rồi chiếm đoạt hàng tỷ đồng.
8 khu đất mà Công ty DCB tự ý phân lô chưa chuyển mục đích sử dụng đất, chưa lập hồ sơ xin duyệt dự án phân lô tách thửa, chưa hoàn thành việc chuyển nhượng, nhưng Chung đã nhận tiền cọc.
Cơ quan điều tra xác định, các thửa đất mà Chung thỏa thuận sẽ phân lô, tách thửa để bán cho khách hàng đều không thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bị cáo.
Một số thuộc quy hoạch đất giao thông, đất cây xanh, thuộc diện đất bị thu hồi không có khả năng chuyển mục đích sử dụng đất, phân lô, tách thửa để bán cho khách hàng. Đến nay, Chung không có đất để giao cũng không trả lại tiền cho khách hàng mà chiếm đoạt.
Đối với Nguyễn Văn Phú, bị cáo khai không phải người đứng tên thửa đất số 591, tờ bản đồ số 2, phường Bình Trị Đông A, quận Bình Tân (1 trong 8 khu đất Chung dung để lừa đảo); cũng không phải là Giám đốc Công ty DCB nhưng vẫn sử dụng pháp nhân này để ký hợp đồng đặt cọc với ông N.H.M. theo chỉ đạo của Chung.
Hành vi của Phú đã giúp sức cho Chung trong việc lừa đảo, chiếm đoạt hàng tỷ đồng của bị hại nên phải chịu trách nhiệm liên đới.
Trong suốt quá trình từ năm 2015 đến thời điểm bị khởi tố, thông qua 9 khu đất tại các quận Bình Tân, Tân Phú, Chung sử dụng tư cách Tông giám đốc, đại diện Công ty DCB ký hợp đồng với 49 khách hàng, chiếm đoạt hơn 85,7 tỷ đồng. Hiện, bị cáo đã trả lại 3,92 tỷ đồng, chiếm đoạt hơn 81,8 tỷ đồng.