Bất cập về cách tính án phí khi các đương sự thỏa thuận thành tại Tòa án

Án phí là một trong những vấn đề quan trọng trong các vụ án dân sự và cũng là một trong những điều kiện bắt buộc để thụ lý vụ án (tạm ứng án phí). Do đó, việc Tòa án quyết định về án phí như thế nào, mức án phí của vụ án là bao nhiêu, ai là người phải chịu án phí, miễn, giảm án phí trong trường hợp nào, đặc biệt là nghĩa vụ chịu án phí trong trường hợp các đương sự thỏa thuận thành trong vụ án dân sự... là vấn đề phức tạp, đòi hỏi các thẩm phán phải thận trọng khi đưa ra phán quyết.

Hình minh họa.

Hình minh họa.

Theo Luật sư (LS) Lê Hiếu - Giám đốc Công ty Luật TNHH Hiếu Hùng, tại khoản 3 Điều 147 BLTTDS 2015 quy định: “Trước khi mở phiên tòa, Tòa án tiến hành hòa giải; nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí sơ thẩm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này”.

Theo quy định tại khoản 7, khoản 8 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì: “Các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa thì phải chịu 50% mức án phí, kể cả đối với các vụ án không có giá ngạch; Trường hợp các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm thì các đương sự vẫn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như trường hợp xét xử vụ án đó. Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 3 Điều 320 của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) thì các đương sự phải chịu 50% án phí giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn”.

Và khoản 1, khoản 2 Điều 147 BLTTDS 2015 quy định: “Đương sự phải chịu án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án phí sơ thẩm; Trường hợp các đương sự không tự xác định được phần tài sản của mình trong khối tài sản chung và có yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung đó thì mỗi đương sự phải chịu án phí sơ thẩm tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được hưởng”.

Khoản 5 Điều 147 BLTTDS 2015 và khoản 9 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định: “Trong vụ án có người không phải chịu án phí hoặc được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm thì những người khác vẫn phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm”.

Mặc dù tại Điều 147 BLTTDS 2015 và Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 đã quy định về nghĩa vụ chịu án phí, đặc biệt trong trường hợp các đương sự thỏa thuận. Nhưng, thực tiễn cho thấy, việc xác định và tính án phí dân sự trong trường hợp các bên thỏa thuận thành và có đương sự được miễn, giảm án phí cũng đã gây nhiều quan điểm trái chiều.

Theo LS Nguyễn Thị Trang - Đoàn LS TP Hà Nội, nếu tất cả các đương sự (cả nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) phải cùng chịu án phí khi họ thỏa thuận thành theo quy định tại khoản 7 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Nghĩa là, nguyên đơn và bị đơn cùng phải chịu án phí nên khi có một đương sự được miễn, giảm thì bên còn lại vẫn phải chịu án phí.

Còn LS Lê Hiếu lại nhận định, khi các bên đương sự đã thỏa thuận thành thì việc xác định, tính án phí phải áp dụng theo nguyên tắc thứ tự quy định tại khoản 1 Điều 147 BLTTDS 2015 và khoản 1, 2, 3 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, sau đó mới vận dụng trong trường hợp vụ án được thỏa thuận thành. Nghĩa là Tòa án phải xác định “đương sự phải chịu án phí sơ thẩm nếu yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận”.

Và trong vụ án dân sự, việc bị đơn thừa nhận nghĩa vụ của họ đối với nguyên đơn, thì họ không muốn tốn khoản án phí phải chịu 100% nếu xét xử nên họ thỏa thuận thời hạn, phương thức thực hiện nghĩa vụ cho nguyên đơn để được giảm 50% án phí. Do đó, trong trường hợp này, nếu bị đơn được miễn giảm thì họ sẽ được miễn giảm theo nguyên tắc có lợi cho bị đơn.

Cùng quan điểm với LS Hiếu, LS Phạm Thị Nguyệt Tú - Giám đốc Công ty Luật TNHH Thái Hà cho rằng, việc cấu trúc một điều luật có nhiều khoản, điểm thì phải được hiểu áp dụng theo nguyên tắc thứ tự là điểm, khoản quy định bắt buộc được ưu tiên áp dụng trước, chẳng hạn như Điều 308, Điều 658 BLDS 2015 quy định về thứ tự thanh toán. Điều này là phù hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 147 BLTTDS 2015: “… thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí sơ thẩm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này” (đương sự phải chịu án phí đối với yêu cầu của họ không được chấp nhận).

Cũng theo LS Tú, việc vận dụng, nhận thức khác nhau về cách xác định nghĩa vụ chịu án phí, cách tính án phí dân sự trong trường hợp các đương sự thỏa thuận thành và có đương sự được miễn, giảm án phí là rất phổ biến trong các vụ án dân sự mà Tòa án giải quyết, đặc biệt liên quan đến các vụ án tranh chấp về hợp đồng vay tài sản, tranh chấp hợp đồng tín dụng. Nếu xác định và tính án phí như quan điểm thứ nhất thì sẽ ít nhiều gây bất lợi cho đương sự (hầu hết là bị đơn) đang có hoàn cảnh khó khăn, không đúng theo nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của đương sự mà pháp luật dân sự, pháp luật tố tụng dân sự quy định.

Gia Hải - Hồng Thương

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/bat-cap-ve-cach-tinh-an-phi-khi-cac-duong-su-thoa-thuan-thanh-tai-toa-an-post542218.html
Zalo