Bàn về nạn sính bằng cấp ở ta

Tổng Bí thư Tô Lâm vừa có bài viết 'Học tập suốt đời' với những thông điệp rõ ràng, ý nghĩa về sự học để nâng cao năng lực mỗi cá nhân, phụng sự tốt Tổ quốc và nhân dân. Trong bài viết này, Tổng Bí thư thẳng thắn phê phán tình trạng học theo phong trào và nạn sính bằng cấp, đồng thời nêu ra những yêu cầu về xây dựng con người mới trong 'Kỷ nguyên vươn mình'.

Trong bài viết, Tổng Bí thư Tô Lâm phân tích thực trạng đáng lo ngại: “Tình trạng hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, chủ nghĩa cá nhân, bệnh kinh nghiệm trong một bộ phận cán bộ, đảng viên ảnh hưởng đến chất lượng thực thi công vụ, chất lượng phục vụ nhân dân; ảnh hưởng đến tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; triệt tiêu động lực đổi mới, sáng tạo, không đủ nền tảng kiến thức và tự tin về năng lực đề xuất, thực hiện những sáng kiến, giải pháp đột phá.

Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thỏa mãn với kiến thức đã học trong các trường lớp, cơ sở đào tạo, hoặc chạy theo việc học để hoàn thiện bằng cấp đủ điều kiện thăng tiến, không chịu nghiên cứu, học hỏi thường xuyên để nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực quản lý, kiến thức, kỹ năng hội nhập và khả năng thích ứng...

Một bộ phận biểu hiện ngại học, không có khái niệm học thường xuyên, học suốt đời nên trở thành lạc hậu, bảo thủ, không thích nghi và bắt nhịp với “guồng quay” hối hả của nhịp sống “vũ bão” thời khoa học và công nghệ 4.0 và X.0”.

Từ những điều Tổng Bí thư nói, chúng ta có thể thấy, chính nạn sính bằng cấp và học theo phong trào đã làm cho nền giáo dục hiện nay như “con thuyền đi trên biển lớn mà mất lái”. Càng cải tiến thì càng rối, càng cấm học thêm, dạy thêm thì nạn học thêm, dạy thêm lại càng phát triển một cách tinh vi hơn. Học sinh bây giờ đến trường không còn là “một ngày vui”, các em bị tước đoạt đi tuổi thơ để cõng những chiếc ba lô nặng trĩu và vùi đầu vào các giờ học thêm...

Còn cán bộ, công chức thì cũng đua nhau đi học thạc sĩ, tiến sĩ nhưng nhiều người trình độ thực tế lại kém xa với những tấm bằng có trong tay.

Nói về hậu quả của nạn sính bằng cấp, tôi xin dẫn chứng câu chuyện nhỏ. Tôi đến nhà máy sản xuất kính nổi Chu Lai và thấy ở đây có một loại công việc nhẹ nhàng, đơn giản hết mức, đó là một tấm kính vừa cán xong được đẩy ra khỏi dây chuyền thì 2 người kéo một tấm giấy đặt lên để chờ tấm kính sau - công việc chỉ có vậy. Nhưng, tôi vô cùng ngạc nhiên khi được biết, mấy nữ công nhân làm công việc này đều đã tốt nghiệp đại học. Rồi, hỏi thêm mới biết có tới 30% công nhân lao động phổ thông ở nhà máy đều đã... tốt nghiệp đại học. Hóa ra, rất nhiều người có bằng tốt nghiệp đại học nhưng phải đi làm những công việc mà chỉ cần trình độ tiểu học là đủ.

Nạn sính bằng cấp đã gây ra không biết bao nhiêu hệ lụy, đó là tình trạng mua bằng cấp, học giả bằng thật, thậm chí mua bằng giả cho đẹp hồ sơ... Đã có không ít người thân bại danh liệt vì sử dụng bằng cấp giả, nhưng tại sao, nạn học theo phong trào và sính bằng cấp ở ta lại phát triển ghê gớm như vậy?

Đầu tiên, phải nói đến tâm lý của người Việt từ ngàn đời nay là chỉ có học mới có con đường tiến thân, “nhân bất học, bất tri lý”, rồi “ấu bất học, lão hàn vi”... Nghĩa là, chỉ có đi học, có bằng cấp mới có thể làm quan - thời phong kiến xưa là thế. Đến thời nay, mặc dù chúng ta cứ nói suốt ngày là “phải chọn người tài” và không nên quá lệ thuộc vào bằng cấp, thế nhưng những quy định về sử dụng, đề bạt cán bộ của ta thì yếu tố bằng cấp lại được đưa lên hàng đầu.

Thế mới có câu “phi đại học bất thành nhân” - tạm hiểu là “không có bằng đại học thì không thể thành người”.

Vì thế, người ta phải sống chết kiếm được tấm bằng đại học thì mới có điều kiện tồn tại và phát triển ở các cơ quan nhà nước và kể cả với một số doanh nghiệp tư nhân.

Nạn sính bằng cấp cũng xuất phát từ tâm lý muốn “mở mày mở mặt”, muốn khoe con cái thành đạt với hàng xóm láng giềng. Cha mẹ nghèo rớt mùng tơi nhưng sống chết cũng phải cho con đi học đại học, mà rồi học xong nhiều người có kiếm được công ăn việc làm đâu, lại phải tham gia “đội quân shipper” hoặc làm các nghề không cần đến bằng đại học!

Nạn sính bằng cấp lại cũng bắt nguồn từ thói háo danh và sĩ diện hão của rất, rất nhiều người Việt. Không ít người nghĩ đủ mưu, chi đủ tiền để kiếm được tấm bằng đại học, trên đại học chủ yếu để khoe mẽ, thỏa mãn thói háo danh.

Hiện nay, đã có tình trạng muốn dự tuyển vào các doanh nghiệp FDI thì người dự tuyển phải giấu bằng cấp, bởi các doanh nghiệp FDI chọn người biết làm nghề chứ họ không cần người có bằng đại học. Theo họ, nếu lấy người có bằng cấp vào làm việc thì chế độ đãi ngộ phải khác, hơn nữa những người có bằng cấp lại hay “tinh tướng”, “lý sự”... Với doanh nghiệp FDI, họ không cần điều đó, họ chỉ cần lao động có kỹ năng và biết tuân thủ kỷ luật.

Cũng lâu nay, chúng ta ngộ nhận rằng, người tốt nghiệp đại học, người có bằng cấp cao là người có tri thức, có trí tuệ... Thực tế không hẳn như vậy, thậm chí đó là nhận thức sai lầm!

Nếu như chịu khó đi học thì sẽ có kiến thức, nhưng có kiến thức chưa chắc đã có tri thức. Có tri thức chưa chắc đã có trí tuệ, người có trí tuệ phải là người vừa có kiến thức nhưng đồng thời phải nhìn thấy được chiều sâu của tất cả những điều diễn ra xung quanh; là người hiểu được sự vật, sự việc, hiểu được sự vận động, phát triển của đời sống.

Người có tri thức là người có thể có hiểu biết uyên bác về một vấn đề, có thể phân tích, trình bày vấn đề ấy một cách khúc chiết và triệt để, nhưng người ấy là người chỉ “biết” chứ không có “hành” và người ấy đối với vấn đề ấy vẫn có thể bị chi phối, không được tự tại. Vì thế, đây cũng chỉ là những “con mọt sách”

Nền giáo dục của chúng ta trong hàng chục năm qua đã biến nhiều học sinh thành những con gà công nghiệp, “nói như con vẹt” nhưng không hiểu biết gì.

Nền giáo dục của chúng ta đã quá tham lam khi nhồi nhét vào đầu con trẻ đủ mọi loại kiến thức và cứ mong muốn là để trẻ em phải “phát triển toàn diện”, nhưng họ không biết rằng, không thể có chuyện “phát triển toàn diện”. Bởi, mỗi người sinh ra đều có đặc tính riêng, sở thích riêng, năng khiếu riêng, không ai giống ai. Có học sinh giỏi toán nhưng kém văn, có học sinh giỏi ngoại ngữ nhưng ngữ pháp tiếng Việt không nắm chắc. Đây là chuyện bình thường, tiếc rằng chúng ta đã chủ trương đào tạo một cách quá giáo điều, sáo rỗng và phi thực tế!

Nói như Tổng Bí thư Tô Lâm thì đúng là việc học tập phải là việc phải làm suốt đời; phải là “học, học nữa, học mãi”. Nhưng, học mà không đi đôi với hành thì cũng vô ích mà thôi! Và, trước sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, sự thay đổi của nền sản xuất thì đòi hỏi cần phải có nhiều người tài là một nhu cầu tất yếu. Chỉ có những người có tài thực sự mới có thể làm xoay chuyển được tình thế trong bất cứ lĩnh vực nào.

Chúng ta có thể “vỗ ngực tự hào” rằng có đội ngũ giáo sư, tiến sĩ hùng hậu, có tỷ lệ người tốt nghiệp đại học ở mức cao trên thế giới... Nhưng, ít ai dám thừa nhận rằng trí tuệ, óc sáng tạo của người Việt còn nhiều hạn chế. Bằng chứng là chúng ta có những công trình nghiên cứu khoa học nào được vinh danh trên thế giới? Có phát minh nào đóng góp được vào kho tàng tri thức nhân loại?

Theo Tổng Bí thư Tô Lâm thì hiện nay, “cách mạng khoa học công nghệ đã và đang diễn ra mạnh mẽ trên quy mô toàn cầu, tạo nên sự biến cách to lớn trong đời sống xã hội, đặt ra những yêu cầu mới, nhu cầu mới, nhiệm vụ mới, suy nghĩ mới, hành động mới với mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt đối với cán bộ, đảng viên của hệ thống chính trị trên con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhất là tận dụng tối đa thời cơ, vận hội, đi tắt đón đầu, đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Để thực hiện thắng lợi yêu cầu, nhiệm vụ, trọng trách trong giai đoạn mới, học tập suốt đời để dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hy sinh vì lợi ích chung, để trở thành những người hữu dụng đang là đòi hỏi cấp thiết đối với từng cá nhân, mỗi công dân, đặc biệt là những cán bộ, nhân viên trong hệ thống chính trị...”.

Để thực hiện được yêu cầu này, một điều rất quan trọng bây giờ là phải có những thay đổi, cách nhìn nhận về bằng cấp trong công tác cán bộ, từ tuyển dụng, đào tạo lại, quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm... Cần phải có những chính sách mới nhằm trọng dụng và để người tài phát triển và chỉ khi nào, chính sách sử dụng, đề bạt cán bộ của ta dám thay đổi về chất thì lúc đó, nền giáo dục mới đi vào thực chất và nạn sính bằng cấp mới có thể được hạn chế.

Nguyễn Như Phong

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/so-tay/ban-ve-nan-sinh-bang-cap-o-ta-i761602/
Zalo