Bản lĩnh người cách mạng trong thời khắc lịch sử

Giữa những chuyển biến nhanh chóng của tình hình thế giới những ngày tháng 8 năm 1945, nhận thấy thời cơ 'ngàn năm có một' đã đến, Trung ương Đảng và Bác Hồ quyết định triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào, đề ra quyết sách khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân. Ngay sau đó, Quốc dân Đại hội Tân Trào họp và bầu Ủy ban Dân tộc giải phóng.

Ngày 16/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa ban hành “Bản quân lệnh số 1” và chỉ khoảng 2 tuần sau, Cách mạng Tháng Tám đã giành thắng lợi trên cả nước.

Sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Bác Hồ là điều kiện tiên quyết đưa tới thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp và sự cai trị của chế độ phong kiến ngàn năm. Ở thời điểm đó, Đảng ta mới tròn 15 tuổi và cả nước chỉ có khoảng 5.000 đảng viên; tuy nhiên, trong mỗi hoàn cảnh, vị trí cụ thể của người cán bộ lãnh đạo, với bản lĩnh và sự sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, căn cứ đường lối của Đảng, họ đã dũng cảm nắm lấy và hoàn thành sứ mệnh lịch sử giao phó.

Lực lượng quần chúng cách mạng và tự vệ Hà Nội tiến chiếm Phủ Khâm sai chiều 19/8/1945.

Lực lượng quần chúng cách mạng và tự vệ Hà Nội tiến chiếm Phủ Khâm sai chiều 19/8/1945.

Hà Nội, với vai trò Thủ đô của Liên bang Đông Dương khi đó, là nơi trấn đóng của nhiều cơ quan đầu não phát xít Nhật và chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim; cũng là nơi mà thực dân Pháp tuy đã “bán đứng” Việt Nam cho Nhật nhưng vẫn còn nhiều lực lượng và quyền lợi về kinh tế. Trong bối cảnh muôn vàn khó khăn, nắm vững đường lối cách mạng của Đảng, nhất là chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, Ủy ban quân sự cách mạng Hà Nội đã được thành lập ngày 16/8/1945 (đến ngày 18/8/1945 chuyển thành Ủy ban khởi nghĩa Hà Nội) để lãnh đạo nhân dân giành chính quyền.

Các thành viên chủ chốt của Ủy ban khởi nghĩa Hà Nội gồm: Nguyễn Khang, Ủy viên thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ; Nguyễn Huy Khôi (tức Trần Quang Huy), cán bộ Ban Công vận Xứ ủy Bắc Kỳ; Nguyễn Quyết, Bí thư Thành ủy Hà Nội; Nguyễn Duy Thân, Thành ủy viên, phụ trách Việt Nam cứu quốc hội và Lê Trọng Nghĩa, cán bộ Xứ ủy Bắc Kỳ, Bí thư đảng đoàn Dân chủ đảng. Cố vấn cho Ủy ban là ông Trần Đình Long.

Thời điểm đầu tháng 8 năm 1945, trước những thất bại quân sự liên tiếp tại châu Á và tại chính nước Nhật, quân Nhật đóng tại Việt Nam từng bước lâm vào cảnh “rắn mất đầu”. Cơn hấp hối của chính quyền tay sai Trần Trọng Kim vì thế đang đến rất gần, nhưng làm sao giành được chính quyền về tay nhân dân nhanh chóng mà ít phải đổ máu nhất là điều Xứ ủy Bắc Kỳ ngày đêm trăn trở, bàn bạc. Từ đó, Xứ ủy quyết định xúc tiến các cuộc gặp gỡ, trao đổi giữa đại diện Việt Minh và Phủ Khâm sai; vị sứ giả của Việt Minh chính là Giáo sư Lê Ngọc (tức Đại tá Lê Trọng Nghĩa).

Người viết bài này từng nhiều lần đến thăm và được đàm đạo với Đại tá Lê Trọng Nghĩa (1922-2015) lúc ông còn bình sinh, về bối cảnh, diễn biến Cách mạng Tháng Tám ở Hà Nội; các cuộc tiếp xúc diễn ra ở Phủ Khâm sai - trung tâm quyền lực chế độ bù nhìn thân Nhật (sau 19/8 có tên là Bắc Bộ phủ, hiện là Nhà khách Chính phủ tại số 12 phố Ngô Quyền, Hà Nội).

Đại tá Lê Trọng Nghĩa kể lại: "Được sự đồng ý của Xứ ủy, sau khi thẩm tra qua nhiều cơ sở tin cậy, tôi đã chấp nhận có một cuộc gặp gỡ bí mật đầu tiên với Khâm sai Phan Kế Toại, ngay tại Dinh Khâm sai một buổi sáng trong giờ làm việc. Tôi trân trọng trình bày chủ trương và hoạt động chống Nhật để giải phóng đất nước của Mặt trận Việt Minh; phong trào chiến tranh du kích do Việt Minh lãnh đạo đang lan rộng ở miền núi. Tôi cố ý nhấn mạnh vấn đề Hoa quân nhập Việt và quân Anh đã sắp đổ bộ vào Sài Gòn... Ông Phan Kế Toại chăm chú lắng nghe và hỏi, nhưng ông tránh đi vào các vấn đề cụ thể đụng chạm đến chính quyền, chính phủ. Vẻ quan tâm, cởi mở nhưng có cân nhắc của ông tỏ ra có thiện cảm với nhiệt tình hăng hái của tôi, một thanh niên, nhưng đồng thời cũng biểu thị một thái độ trọng thị Mặt trận Việt Minh".

Sau cuộc gặp này không lâu, một cuộc gặp gỡ thứ hai diễn ra tại Phủ Khâm sai với sự sắp đặt của ông Phan Kế Toại, giữa Giáo sư Lê Ngọc với Thủ tướng Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Đại tá Lê Trọng Nghĩa hồi tưởng: “Cuộc gặp gỡ diễn ra trong phòng khách lớn Phủ Khâm sai Bắc bộ với sự có mặt của ông Phan Kế Toại... Tôi tranh thủ trình bày trước để giới thiệu chương trình Việt Minh, nêu lên ưu thế của Việt Minh là đã cùng đứng về phía Đồng minh chống phát xít Nhật từ nhiều năm và đã lập được khu giải phóng; Mặt trận của Việt Minh có đông đảo dân chúng đi theo, chỉ có Việt Minh mới đủ điều kiện đảm bảo chắc chắn giành được độc lập hoàn toàn cho đất nước.

Ông Trần Trọng Kim chú ý nghe nhưng không có phản ứng gì rõ ràng. Đến lượt mình nói, Trần Trọng Kim phác ra chủ trương của chính phủ, tỏ rõ quan điểm thân Nhật, dựa vào Nhật... Tôi cảm thấy hơi nóng mặt nhưng ông Phan Kế Toại đã tiếp lời ngay, công khai bày tỏ tin tưởng chính phủ sẽ xem xét đến các vấn đề mới được đề cập; theo ông "Những người Việt Minh ở ngoài Bắc này khá mạnh... và dân chúng đi theo họ".

Đến ngày 16/8/1945, lại diễn ra cuộc gặp giữa Khâm sai Phan Kế Toại với các đại biểu Việt Minh do đồng chí Nguyễn Khang, Ủy viên thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ dẫn đầu. Ông Phan Kế Toại "trân trọng mời" Việt Minh tham gia "Chính phủ lâm thời"; tất nhiên, vị đại diện Việt Minh đã thẳng thừng bác bỏ và kết luận: "Tốt hơn hết là các ông từ chức đi!".

Tác giả và Đại tá Lê Trọng Nghĩa trong một lần gặp.

Tác giả và Đại tá Lê Trọng Nghĩa trong một lần gặp.

Về diễn biến khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội, đã từ lâu được minh định nhưng với tư cách là nhân chứng lịch sử, một trong những cốt cán của Ủy ban khởi nghĩa Hà Nội, Đại tá Lê Trọng Nghĩa kể lại khoảnh khắc tiến chiếm Phủ Khâm sai vào đầu giờ chiều ngày 19/8/1945: "Từ Nhà hát Lớn Hà Nội, chúng tôi dẫn đầu đoàn quần chúng ào ạt tiến về Phủ Khâm sai... Tôi, anh Trần Tử Bình (khi đó giữ vai trò trực Xứ ủy Bắc Kỳ - PV), anh Nguyễn Khang và nhiều quần chúng vượt qua cổng sắt, tràn lên đại sảnh và tiến vào Văn phòng Phủ Khâm sai. Nhân danh Ủy ban khởi nghĩa Hà Nội, anh Trần Tử Bình tiến thẳng đến nơi làm việc của Nguyễn Xuân Chữ, người cầm đầu "Ủy ban chính trị" bù nhìn, ra lệnh phải đầu hàng. Hai tự vệ Thành Hoàng Diệu lập tức trói Nguyễn Xuân Chữ lại, giải đi (sau này, bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ được đích thân Hồ Chủ tịch kí lệnh phóng thích - PV).

Thấy trong phòng có hệ thống máy thông tin, anh Trần Tử Bình quay điện gọi các tỉnh trưởng và thị trưởng Hà Nam, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh… thông báo Việt Minh đã giành chính quyền ở Hà Nội; yêu cầu họ phải mau chóng giao chính quyền cho Việt Minh, nếu không sẽ bị cách mạng xử lí. Cùng lúc, một số tỉnh trưởng, tri phủ, tri huyện hoảng hốt gọi điện về Phủ Khâm sai để xin ý kiến, đều nhận được mệnh lệnh dứt khoát của anh Trần Tử Bình: "Lập tức trao quyền ngay cho Việt Minh!". Đồng thời với việc chiếm Phủ Khâm sai, lực lượng cách mạng đã bao vây và chiếm những trung tâm quyền lực: Trại Bảo an binh, Ty Liêm phóng, Sở Cảnh sát Hàng Trống, Tòa án, Kho bạc, Bưu điện...

Mũi chiếm Trại Bảo an binh do đồng chí Nguyễn Quyết phụ trách. Sau khi ta chiếm được trại, quân Nhật đưa xe tăng tới bao vây, đòi tước vũ khí của ta và yêu cầu trả lại Trại Bảo an binh cho chính quyền Trần Trọng Kim. Trong đoàn người khởi nghĩa, nhiều ý kiến đòi tấn công quân Nhật. Giữ vai trò là người lãnh đạo, đồng chí Nguyễn Quyết nhận định: Nếu để xảy ra xung đột với quân Nhật, hậu quả rất khó lường, có thể không giữ được thành quả cách mạng, quân Nhật sẽ thẳng tay đàn áp… Với thái độ mềm dẻo nhưng cương quyết, đồng chí Nguyễn Quyết đã thuyết phục quân Nhật rút về doanh trại vào cuối giờ chiều 19/8/1945.

Như vậy, chỉ trong ngày 19/8, về cơ bản, các vị trí trọng yếu của chính quyền bù nhìn tại Hà Nội đã rơi vào tay cách mạng. Cách mạng Tháng Tám tại Hà Nội thành công nhanh chóng và hầu như không phải đổ máu. Đó là nhờ đường lối đúng đắn, sự lãnh đạo sáng suốt của Bác Hồ và Trung ương Đảng, bản lĩnh và sự nhạy bén của những người trực tiếp lãnh đạo khởi nghĩa. Với phương châm dùng lực lượng chính trị áp đảo của quần chúng cách mạng để khởi nghĩa, tiến chiếm các cơ quan quyền lực, nhưng không chiếm những nơi quân Nhật đồn trú, không đặt ra yêu cầu tước vũ khí của quân Nhật (điều này giải thích vì sao ta không chiếm Phủ Toàn quyền, Bộ Tổng tham mưu, Đồn Thủy... là nơi quân Nhật đang chiếm đóng - PV); nên đã tránh được sự đối đầu, can thiệp của quân Nhật.

Cách mạng Tháng Tám thành công tại Hà Nội đã truyền cảm hứng, nhân lên nguồn sức mạnh để toàn dân tộc vùng lên làm chủ đất nước. Hai tuần sau, ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam hiện đại.

Trần Duy Hiển

Nguồn CAND: https://cand.com.vn/cong-an/ban-linh-nguoi-cach-mang-trong-thoi-khac-lich-su-i778421/
Zalo