Bản làng 'reo vui'
Giữa miền biên viễn, bản làng heo hút đã “reo vui” với nhiều mái nhà khang trang, những con đường mới nối dài nhịp sống, các công trình thiết yếu và mô hình sinh kế gieo niềm hy vọng về cuộc sống mới trên bản cao. Đó là kết quả ấn tượng sau hơn 4 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT - XH vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi.

Nghề dệt vải lanh truyền thống trên Cao nguyên đá được gìn giữ và phát huy. Ảnh: Biện Luân
Hà Giang là tỉnh biên giới với trên 87% dân số là người DTTS, 127 xã thuộc khu vực III và 1.353 thôn đặc biệt khó khăn. Hầu hết, đồng bào DTTS sinh sống ở địa bàn núi cao, khí hậu khắc nghiệt, hạ tầng chưa đồng bộ, thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản; bởi thế, tỉnh có nhiều đối tượng, địa bàn được thụ hưởng từ chương trình. Sau khi Nghị quyết của Quốc hội về 3 chương trình mục tiêu quốc gia được ban hành, Hà Giang là một trong những tỉnh hoàn thành sớm công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn, tạo hành lang pháp lý để tổ chức thực hiện chương trình nhanh chóng. Tỉnh chỉ đạo, điều hành sát sao, toàn diện về công tác dân tộc, kịp thời ban hành các nghị quyết, kế hoạch, đề án cụ thể hóa vào điều kiện thực tiễn của địa phương; Ban Chỉ đạo thực hiện chương trình được thành lập ở cả 3 cấp; kịp thời nắm bắt khó khăn vướng mắc, đề xuất giải pháp tháo gỡ để đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn. Giai đoạn 2021 - 2025, kế hoạch tổng nguồn vốn giao thực hiện chương trình trên 6.423 tỷ đồng; trong đó ngân sách T.Ư trên 6.129 tỷ đồng, ngân sách địa phương gần 290 tỷ đồng. Đến hết năm 2024 đã thực hiện giải ngân trên 4.365,6 tỷ đồng, đạt 70,7%.

Khách du lịch đến tìm hiểu văn hóa người dân tộc Dao thôn Nặm Đăm, xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ. Ảnh: Viên Sự
Các dự án, tiểu dự án thành phần được triển khai đồng bộ, phù hợp, được Nhân dân đồng tình ủng hộ. Chương trình đã hỗ trợ 2.027 hộ làm nhà ở, đầu tư 760 công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu, thực hiện 7 dự án quy hoạch, sắp xếp, bố trí, ổn định dân cư, gần 1.000 hộ chuyển đổi nghề, xây dựng 52 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung, hỗ trợ gần 1.000 dự án đa dạng hóa sinh kế, đầu tư xây dựng, cải tạo 320 công trình giao thông nông thôn, 113 công trình cấp điện, 32 trường, lớp học, 29 trạm y tế, hỗ trợ đào tạo nghề cho 13.800 lao động; đầu tư xây dựng 355 thiết chế văn hóa, thể thao. Tổ chức trên 1.180 hoạt động thay đổi “nếp nghĩ, cách làm” nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ, thúc đẩy bình đẳng giới. Đến nay, 100% xã có đường ô tô đến trung tâm được rải nhựa hoặc bê tông, 98% thôn bản có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa; 93% đồng bào DTTS được sử dụng nước hợp vệ sinh; 90% thôn có nhà văn hóa hoặc nơi sinh hoạt cộng đồng; duy trì 100% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; hoàn thành đưa 6 xã ra khỏi địa bàn khó khăn; tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào DTTS giảm bình quân 5,38%/năm; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 61,2%; tỷ lệ huy động trẻ 6 - 14 tuổi đến trường đạt 99%.
Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo, Chu Thị Ngọc Diệp chia sẻ: “Một trong những yếu tố góp phần làm nên thành công của chương trình là sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của tỉnh, cách tổ chức chủ động, linh hoạt, khoa học ở cơ sở và sự đồng thuận cao trong Nhân dân. Hầu hết các dự án, tiểu dự án đều được đánh giá hiệu quả và hiệu quả tốt, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân vùng cao”.
Tuy nhiên, quá trình triển khai chương trình vẫn còn những khó khăn, vướng mắc, một số chỉ tiêu chưa đạt so với nghị quyết của tỉnh như tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng DTTS, thu nhập bình quân đầu người; toàn tỉnh vẫn còn nhiều xã, thôn đặc biệt khó khăn, một số dự án, tiểu dự án thành phần thực hiện chậm, mô hình sinh kế mang tính nhỏ lẻ, thiếu liên kết. Để tiếp tục thực hiện hiệu quả chương trình trong giai đoạn tiếp theo, ngoài nỗ lực của cả hệ thống chính trị trên địa bàn, tỉnh kiến nghị T.Ư tích hợp, lồng ghép các dự án có cùng mục tiêu, phạm vi, đối tượng để giảm đầu mối, tránh chồng chéo; đẩy mạnh phân cấp, giao quyền chủ động cho các địa phương; xem xét mở rộng đối tượng, địa bàn, thời gian thực hiện đối với các nội dung hỗ trợ trực tiếp cho hộ gia đình; xem xét, bổ sung các quy định cho phép địa phương điều chỉnh kế hoạch vốn ngân sách Nhà nước hàng năm để thực hiện chương trình đối với nguồn vốn kéo dài.