Bài học từ khí phách Nam bộ kháng chiến 80 năm trước
Cách đây 80 năm, giữ vững lời thề 'độc lập hay là chết', quân dân Nam bộ bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ 2. Với khí thế 'Gậy tầm vông đánh tan quân bạo tàn', quân và dân Nam bộ đã chiến đấu ngoan cường, gây cho địch nhiều tổn thất.
Bài học về tinh thần quả cảm của Tiểu đội tự vệ chiến đấu với một đại đội quân Anh tại cột cờ Thủ Ngữ là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa yêu nước, dù phải hy sinh cũng không lùi bước, dù đối mặt với hiểm nguy cũng không sờn lòng.
Kỷ niệm 80 năm Ngày Nam bộ kháng chiến (23/9/1945 - 23/9/2025), phóng viên Báo điện tử Tiếng nói Việt Nam phỏng vấn Tiến sĩ (TS) Sử học Phạm Minh Thế, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (KHXH&NV), Đại học Quốc gia Hà Nội về chủ đề này.
Khí phách bất diệt
PV: Thưa ông, chỉ 21 ngày sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, chúng ta đã phải đối đầu với cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ 2 của thực dân Pháp. Cuộc chiến đấu ngày 23/9/1945, đặc biệt là cuộc chiến đấu ở cột cờ Thủ Ngữ, được coi là biểu tượng cho tinh thần đấu tranh và ý chí bất khuất của dân tộc Việt Nam?
TS Phạm Minh Thế: Được sự hậu thuẫn của thực dân Anh, 0h ngày 23/9/1945, trong trang phục quân đội Anh, các toán quân Pháp nổ súng tập kích các cơ quan đầu não của chính quyền cách mạng và các điểm xung yếu khác. Đối phó với hành động xâm lược của quân Pháp, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn đã dũng cảm đánh trả. Đặc biệt, tiểu đội chiến sĩ bảo vệ cột cờ Thủ Ngữ, chỉ với súng săn, dao găm, lựu đạn, đã chiến đấu ngoan cường cho đến người cuối cùng chống lại một đại đội quân Anh.
Có thể nói, đây là trận đánh tiêu biểu, thể hiện nghị lực, ý chí, tinh thần anh dũng, kiên cường, sẵn sàng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Để bảo vệ cho lá cờ Tổ quốc treo trên cột cờ Thủ Ngữ - biểu tượng của tinh thần dân tộc, của độc lập và tự do, Ủy ban kháng chiến Nam bộ bố trí lực lượng khoảng một tiểu đội tự vệ chiến đấu. Tiểu đội tự vệ được trang bị súng săn, dao găm, lựu đạn tự chế. Khi đại đội quân Anh đến để định hạ lá cờ đỏ sao vàng xuống, kéo lá cờ tam tài lên, các chiến sĩ cảm tử đã chống trả quyết liệt.

Cột cờ Thủ Ngữ tại công viên bến Bạch Đằng, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: qdnd.vn
Một tiểu đội dù chỉ có vũ khí thô sơ nhưng đã quyết chiến đấu với đại đội quân Anh được trang bị vũ khí hiện đại. Do lực lượng mỏng, vũ khí thô sơ, trong khi địch có hỏa lực mạnh, quân số đông, từng chiến sĩ của tiểu đội đã anh dũng hy sinh dưới chân cột cờ Thủ Ngữ.
Khâm phục trước tinh thần chiến đấu quả cảm của các chiến sĩ ta làm nhiệm vụ bảo vệ cột cờ, viên sĩ quan chỉ huy người Anh đã ra lệnh cho cả đại đội bồng súng chào những chiến sĩ của đối phương vừa ngã xuống dưới chân cột cờ.
PV: Ông có cho rằng, cuộc chiến đấu của quân và dân Nam bộ không chỉ tiêu biểu cho sự gan dạ, dũng cảm mà còn cho thấy sự mưu trí, linh hoạt, sáng tạo trước một kẻ thù mạnh hơn rất nhiều lần?
TS Phạm Minh Thế: Đúng là như thế. Bởi ngay khi chiến sự bùng nổ thì Ủy ban nhân dân (UBND) Nam bộ đã tổ chức một cuộc họp quan trọng để bàn về những công việc trước mắt của chính quyền cách mạng trong tình hình có chiến tranh.
Việc tổ chức khu vực nội thành Sài Gòn thành 16 khu vực kháng chiến, tổ chức đào giao thông hào, đục tường thông qua các nhà trong khu phố, dựng chiến lũy, lập chướng ngại vật để tổ chức đánh phục kích tiêu hao sinh lực địch, ngăn bước tiến của quân Pháp là lựa chọn đúng.
Đồng thời lập thêm 3 mặt trận tiền tuyến vòng ngoài để thực hiện trong đánh, ngoài vây, ngăn chặn bước tiến của quân Pháp ra khỏi thành phố là sự mưu trí, sáng tạo trong bố trí lực lượng và phối hợp tác chiến của các lực lượng với nhiều tầng nấc.
Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa
PV: Nhìn lại sự kiện Nam bộ kháng chiến, chúng ta nhớ lại những hoàn cảnh đất nước phải đứng trước lựa chọn: Đánh hay hòa. Mặc dù là dân tộc yêu chuộng hòa bình nhưng chúng ta nhiều lần bắt buộc phải chọn đánh. Đó là sự lựa chọn cuối cùng, cực chẳng đã, thưa ông?
TS Phạm Minh Thế: Câu hỏi này làm tôi nhớ về Chủ tịch Hồ Chí Minh và một trong những học trò xuất sắc của Người đó là Đại tướng Nguyễn Chí Thanh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946 đã nói rất rõ: “Chúng ta muốn hòa bình. Chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”. Và đó chính là lý do để Người khẳng định: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Còn Đại tướng Nguyễn Chí Thanh trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng đã từng phát biểu đanh thép trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 năm 1959 rằng: Vì hòa bình mà đánh.
Thực tiễn đã cho thấy, trong cả hai cuộc kháng chiến này, chúng ta đều thể hiện thiện chí hòa bình và chọn đàm phán trước với kẻ thù. Nhưng đó không phải là thái độ yếu hèn, mà đàm phán là để tránh chiến tranh, tránh sự đổ máu không đáng có giữa hai bên.
Và khi kẻ thù xâm lược đã thể hiện rõ dã tâm ác độc muốn xâm chiếm đất nước ta và thiết lập chế độ cai trị thuộc địa tàn khốc của chúng, bóc lột và giày xéo, đọa đày, tàn sát nhân dân ta, thì ta cũng quyết đánh để bảo vệ độc lập, tự do và sự toàn vẹn chủ quyền quốc gia lãnh thổ.
Chiến tranh do đó không phải là lựa chọn đầu tiên, mà là sự lựa chọn cuối cùng khi tất cả các giải pháp khác đã không giải quyết được vấn đề. Vì ta không đánh thì kẻ thù cũng đánh. Ta không đánh cũng bị tiêu diệt, bị thống trị và bóc lột. Do đó, phải quyết đánh và quyết thắng. Bởi chỉ có đánh và đánh thắng được kẻ thù xâm lược thì mới bảo vệ được độc lập, tự do và toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, mới có được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc bền vững, trường tồn.
PV: Chúng ta luôn luôn đứng về hòa bình, đứng về lẽ phải. Nhưng khi Tổ quốc lâm nguy, chủ quyền quốc gia bị xâm phạm, chúng ta cũng sẵn sàng thực hiện quyền tự vệ chính đáng để bảo vệ Tổ quốc. Ông có quan điểm như thế nào về vấn đề này?
TS Phạm Minh Thế: Truyền thống của quốc gia dân tộc ta là yêu chuộng hòa bình, cho nên, chúng ta luôn chọn đứng về hòa bình, đứng về lẽ phải. Nhưng không có nghĩa là chúng ta sợ hãi chiến tranh, nhất là chiến tranh vệ quốc để bảo vệ cho hòa bình và chủ quyền quốc gia dân tộc.
Và muốn có hòa bình và hòa bình lâu dài, bền vững thì cần phải chuẩn bị thật tốt cho chiến tranh để khi có chiến tranh thì ta không bị động, bất ngờ. Quan điểm, chiến lược quốc phòng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa cũng cho thấy rõ điều này.
Chúng ta phải giữ nước từ khi nước chưa nguy. Đó chính là triết lý giữ nước đã được đúc kết trong lời thơ Tụng giá hoàn kinh sư của tướng Trần Quang Khải đời Trần rằng: “Thái bình luôn gắng sức/Non nước ấy nghìn thu”. Tiếp nối triết lý đó, trong một phát biểu gần đây, Đại tướng Phan Văn Giang - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cũng nói: “Phải làm tốt cho thời bình nhưng phải tính cho khi có tình huống xảy ra... Nếu không chuẩn bị thì sẽ bị bất ngờ ngay, nên phải chuẩn bị thật kỹ, thật chắc, nhiều bài, nhiều phương án, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”.
Cho nên xây dựng Quân đội chỉ để đánh thắng trong chiến tranh là chưa đủ, mà phải đủ sức mạnh răn đe, dập tắt ý đồ xâm hại từ bên ngoài - cái đó mới là thượng sách. Quân đội thời bình phải bảo vệ đất nước bằng cả biện pháp hòa bình, chứ không phải chờ đến chiến tranh mới bảo vệ.
Cho nên, chuẩn bị tốt, sẵn sàng cho chiến tranh không phải là thể hiện tinh thần hiếu chiến, đe dọa chiến tranh, đe dọa dùng vũ lực với các nước khác, mà là chúng ta đang thực hiện quyền tự vệ chính đáng của chúng ta, chuẩn bị để chủ động đảm bảo an ninh quốc phòng, sự toàn vẹn chủ quyền quốc gia lãnh thổ và thực hiện chủ trương bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa của Đảng và Nhà nước, để có hòa bình lâu dài và bền vững cho đất nước, có quan hệ hòa hiếu, bình đẳng với bạn bè quốc tế.
PV: Cảm ơn tiến sĩ Phạm Minh Thế.