Mở hướng đi mới cho đặc sản măng rừng xứ Thanh vươn xa
Giữa đại ngàn xứ Thanh, những búp măng non mọc lên từ đất ẩm, từ sương rừng và hơi thở núi. Chúng nuôi sống biết bao thế hệ đồng bào dân tộc thiểu số, và hôm nay, đã vươn mình thành thương hiệu OCOP được thị trường đón nhận...

Măng rừng từ món ăn dân dã đến sản phẩm OCOP ở xứ Thanh. Ảnh: Quỳnh Trâm
Hành trình ấy là câu chuyện đậm chất văn hóa, thấm đẫm mồ hôi, tình yêu rừng và khát vọng đổi thay của người miền núi.
MÓN QUÀ CỦA RỪNG
Một sáng cuối tuần, theo chân cô giáo Hà Thị Nhớ, người phụ nữ dân tộc Thái đang công tác tại điểm trường mầm non Ché Lầu (Quan Sơn), chúng tôi bước vào cánh rừng quen thuộc của bản. Trời tháng 9, những giọt sương còn đọng trên lá luồng, vầu. Tiếng gà rừng xa xa vọng lại. Cô Nhớ vừa đi vừa thoăn thoắt dùng con dao nhỏ đào những búp măng mới nhú.
“Từ nhỏ, tôi đã theo mẹ và bà đi đào măng. Măng có quanh năm, mỗi mùa một vị, mỗi loại một cách chế biến khác nhau. Trên mâm cơm người Thái, măng là món không thể thiếu”, cô nói, đôi mắt ánh lên niềm tự hào.

Người dân huyện biên giới Quan Sơn hái măng rừng. Ảnh: Quỳnh Trâm
Quả thật, măng hiện diện như một phần linh hồn của đời sống. Người dân bản có thể chế biến hàng chục món từ măng: măng tươi luộc chấm mẻ, măng muối ớt chua cay, măng khô xào thịt, măng nấu miến, măng hầm xương… Mỗi món lại mang hương vị riêng, đậm đà, thơm ngọt vị núi rừng.
Ở mỗi gia đình, mùa măng về là mùa cả bản rủ nhau đi rừng. Trẻ nhỏ học cách nhận biết từng loại: măng le nhỏ, giòn, xuất hiện từ đầu năm đến tháng 4; măng vầu, măng luồng ngon nhất vào tháng 8 đến tháng 10. Người già truyền cho con cháu bí quyết sơ chế luộc qua để bớt đắng, phơi khô dưới nắng gắt, treo trên gác bếp cho khói hun giữ mùi thơm. Những kinh nghiệm ấy như lời ca dao truyền đời, thành vốn quý không thể mất.
HÀNH TRÌNH TRỞ THÀNH SẢN PHẨM OCOP
Quan Sơn, miền đất nơi rừng chiếm phần lớn diện tích, trong đó có hơn 54.000 ha rừng tre nứa, vầu, luồng. Từ bao đời, đây là nguồn sống chính của hàng ngàn hộ dân nơi đây.
Mỗi năm, người dân Quan Sơn khai thác trên 10 triệu cây luồng, hàng nghìn tấn nứa, vầu và hàng trăm tấn lâm sản ngoài gỗ khác. Một phần được bán thô cho thương lái đưa đi các tỉnh phía Bắc và miền Nam; một phần được sơ chế tại các cơ sở địa phương.

Các sản phẩm OCOP từ măng rừng. Ảnh: Quỳnh Trâm
Cùng với gỗ, luồng, nứa, măng chính là “lộc rừng” quý giá. Bà con có thể vào rừng hái măng bán cho các chợ vùng cao, mỗi bó vài chục nghìn đồng, tích lại cũng thành nguồn thu không nhỏ. Nhưng quan trọng hơn, măng đã bước ra khỏi khuôn khổ tự cung tự cấp để trở thành sản phẩm hàng hóa có thương hiệu.
Theo Văn phòng Điều phối Chương trình xây dựng nông thôn mới tỉnh Thanh Hóa, toàn tỉnh hiện có 634 sản phẩm OCOP. Trong số đó, có 19 sản phẩm từ măng, chiếm tỷ lệ đáng kể, tập trung ở 11 huyện miền núi.
Ở Quan Sơn (cũ), 3 sản phẩm măng đã được công nhận OCOP: “Măng khô Nang Non”, “Măng treo bốn mùa Mường Xia” và “Măng búp Duy Linh”. Mỗi cái tên mang theo một câu chuyện riêng.
Tại HTX Nông nghiệp xanh Duy Linh, bà Vi Thị Thơm, Phó Giám đốc HTX, giới thiệu những bao măng khô vàng ươm, được đóng gói cẩn thận. “Nguyên liệu đầu vào quan trọng nhất là những búp măng nứa, vầu, luồng non, ngọt. Chúng tôi liên kết với các hộ trồng rừng để thu mua tận gốc, sau đó sơ chế, phơi khô tự nhiên". Chia sẻ điều này, bà Thơm cho biết "hiện măng búp Duy Linh được bán lẻ với giá 250 đến 300 nghìn đồng/kg, thị trường tiêu thụ tốt, không chỉ quanh vùng mà khắp Thanh Hóa”.

Thanh Hóa hiện có có 19 sản phẩm OCOP làm từ măng. Ảnh: Ngọc Huấn
Từ góc nhìn của chị Thơm, măng đã giúp nhiều hộ dân gắn bó với rừng, có thêm nguồn thu nhập ổn định. Người nông dân không còn chỉ biết vào rừng đào măng tươi bán vội ngoài chợ, mà nay đã tham gia chuỗi giá trị: trồng, chăm sóc, cung ứng nguyên liệu, cùng HTX tạo nên sản phẩm thương hiệu.
Quan Hóa (cũ) có 11 sản phẩm OCOP 3 sao, trong đó 4 sản phẩm từ măng. “Măng ốt Lê Hiền” ở xã Nam Tiến là một ví dụ độc đáo. Khác với cách chế biến thường thấy, ở đây, măng tươi được làm sạch, hấp chín rồi treo lên gác bếp. Nhiệt và khói giữ cho măng không bị hỏng, lại thêm hương vị đặc biệt. Người dân gọi đó là “măng ốt”, món ăn để dành quanh năm. Nhờ cách làm truyền thống ấy, cơ sở Lê Hiền đã tạo việc làm thường xuyên cho nhiều lao động địa phương với thu nhập 5 triệu đồng/tháng.
GIÁ TRỊ VĂN HÓA VÀ KHÁT VỌNG VƯƠN XA
Nếu trước đây, măng chỉ quanh quẩn trong bữa cơm của người dân bản mường, thì nay đã trở thành đặc sản được tìm mua ở thành phố, thậm chí có mặt tại thị trường ngoài tỉnh. Măng khô, măng muối ớt, măng chua… từ Quan Sơn, Quan Hóa đã có mặt tại Hà Nội, Hải Phòng... và dần tìm chỗ đứng ở các tỉnh phía Nam.
Để giữ thị trường, người sản xuất phải chú trọng chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, mẫu mã, bao bì. OCOP chính là “tấm vé” để sản phẩm măng bước vào sân chơi rộng lớn ấy.

Măng khô, măng muối ớt, măng chua… từ Quan Sơn, Quan Hóa đã có mặt tại Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hòa Bình và dần tìm chỗ đứng ở các tỉnh phía Nam. Ảnh: Ngọc Huấn
Trong câu chuyện với chúng tôi, nhiều hộ dân đều bày tỏ niềm tin: khi măng đã thành thương hiệu, giá trị kinh tế cũng cao hơn, đời sống người dân khá lên, đồng thời khuyến khích họ bảo vệ và phát triển rừng bền vững. Bởi rừng chính là nơi măng sinh sôi.
Măng là món ăn, là kế sinh nhai, nhưng còn hơn thế – nó là văn hóa của người miền núi Thanh Hóa. Trong mỗi lễ hội, măng thường hiện diện trong mâm cỗ truyền thống, như sự gắn kết giữa con người với núi rừng.
Ngày nay, những sản phẩm măng OCOP không chỉ mang giá trị thương mại mà còn trở thành “đại sứ văn hóa”. Mỗi gói măng khô, mỗi lọ măng muối ớt đến tay người tiêu dùng đều chứa đựng câu chuyện về rừng, về bản làng, về nếp sống truyền đời.
Khát vọng tương lai là đưa măng vươn xa hơn, trở thành sản phẩm xuất khẩu, có mặt ở nhiều thị trường khó tính. Để làm được điều đó, cần sự liên kết chặt chẽ giữa chính quyền, doanh nghiệp, HTX và người dân. Đầu tư công nghệ chế biến, xây dựng thương hiệu mạnh, bảo đảm truy xuất nguồn gốc – đó là hướng đi tất yếu.