Ba thầy giáo nổi danh bậc nhất sử Việt
Đây đều là những người thầy lỗi lạc trong lịch sử nước nhà mà nhân dân đời đời ngưỡng mộ.
Thầy Chu Văn An
Thầy Chu Văn An (1292-1370), được người đời suy tôn là "vạn thế sư biểu" - người thầy chuẩn mực muôn đời của Việt Nam.
Chu Văn An sinh ra trong gia đình nghèo ở làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là Thanh Trì, Hà Nội). Sinh thời, Chu Văn An xác định đi học để làm nghề dạy học. Khi được thầy khuyên bảo, ông xách lều chõng đi thi và đỗ thái học sinh (tiến sĩ). Dù đỗ đạt cao, Chu Văn An từ chối làm quan, về nhà mở trường dạy học.
Trở thành thầy giáo, Chu Văn An phát động cuộc cải cách giáo dục đúng nghĩa. Ông bắt tay vào soạn bộ Tứ thư thuyết ước, gồm 10 quyển. Đây chính là bộ giáo trình giảng dạy đầu tiên của nước ta. Ông cũng là người khởi xướng chủ trương học đi đôi với hành.
Tiếng thơm vang đến kinh thành, quan tư đồ Trần Nguyên Đán trực tiếp đến thọ giáo. Vua Trần Minh Tông mời ông ra giúp nước, lần này không phải để làm quan mà là dạy học. Được tin Chu Văn An nhận lời, vua Trần Minh Tông mừng rỡ, giao giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám.
Mấy chục năm làm việc ở Quốc Tử Giám, Chu Văn An cống hiến hết mình cho giáo dục. Bên cạnh những học trò xuất sắc như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, ông trực tiếp giảng dạy cho rất nhiều hoàng tử. Bốn người trong số đó sau này lên ngôi vua, gồm vua Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông.
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585). Không chỉ là danh nhân văn hóa, nhà thơ lớn, bậc hiền triết, nhà tiên tri đại tài, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn được biết đến là nhà giáo vĩ đại.
Nguyễn Bỉnh Khiêm thi đỗ giải Nguyên đời nhà Mạc. Ông làm quan được 8 năm, sau đó vì dâng sớ hạch tội 18 lộng thần nhưng không được vua nghe nên ông xin cáo quan về quê, dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ mở trường dạy học.
Hơn 40 năm lui về am Bạch Vân dạy học là hơn 40 năm thầy dồn hết tâm huyết đào tạo nhiều tri thức lớn cho đất nước. Danh tiếng và tài năng của thầy và trường Bạch vân bên dòng Tuyết Giang vang dội khắp nơi. Thầy được các môn sinh tôn là "Tuyết Giang phu tử" - một danh xưng tôn kính cho những bậc sư biểu đức độ.
Nguyễn Bình Khiêm giáo dục cho nhân dân và học trò rất nhiều về đạo làm người, đạo lý ở đời, sự học, cách học. Ông coi việc giáo dục phải thực hiện được vai trò định hướng ý chí và hành động cho người học, nhất là việc gắn ý chí học hành với lý tưởng cống hiến hết mình cho đất nước. Học trò của thầy có những tên tuổi nổi tiếng như Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan.
Nguyễn Thiếp
Nguyễn Thiếp (1723-1804), danh sĩ, nhà giáo nổi tiếng giai đoạn cuối thế kỳ XVIII, quê ở Đức Thọ, Hà Tĩnh.
Tương truyền, từ nhỏ Nguyễn Thiếp bộc lộ thiên chất thông minh, học rộng, hiểu sâu, sớm nhận biết được nhân tình thế thái. Năm 20 tuổi, ông đi thi Hương và đậu hương giải, được bổ làm Huấn Đạo rồi thăng Tri huyện Thanh Chương (Nghệ An).
Ra làm quan giữa thời buổi nhiễu nhương, với cảnh tượng “chúa ác, vua hèn”, giặc giã liên miên, càng ngày Nguyễn Thiếp càng bộc lộ nỗi ưu thời mẫn thế, chán ghét chốn quan trường.
Năm 1786, Nguyễn Thiếp quyết định rũ áo, từ quan, lên núi Thiên Nhẫn lập trại và dạy học, bắt đầu sống cuộc đời ẩn cư với danh hiệu La Sơn Phu Tử. Nổi tiếng là người đạo hạnh thanh cao, có trình độ uyên bác, uy tín của Nguyễn Thiếp dần được lưu truyền, lan tỏa khắp cả nước.
Không chỉ học trò, ông còn nhận được sự kính trọng rất lớn từ danh sĩ, trí thức và cả vua Quang Trung. Vua ba lần viết chiếu cầu hiền, mời ông ra giúp nước với lời lẽ hết sức thắm thiết nhưng đều bị từ chối. Tới lần thứ tư, ông mới nhận lời.
Theo một số tài liệu lịch sử, Nguyễn Thiếp hiến mưu kế, giúp vua Quang Trung them góc nhìn đúng đắn về tình hình quân địch, cũng như chiến lược đại phá quân Thanh. Năm 1791, vua Quang Trung thành lập Viện Sùng ngay tại nơi Nguyễn Thiếp ở ẩn và mời ông làm viện trưởng với nhiệm vụ biên dịch các sách chữ Hán sang chữ Nôm, thực hiện biện pháp cải cách giáo dục, đào tạo nhân tài.
Năm 1792, vua Quang Trung đột ngột băng hà, mọi lo toan cho sự nghiệp giáo dục của La Sơn Phu tử bị đứt quãng. Nguyễn Thiếp về lại Thiên Nhẫn, tiếp tục sống cuộc đời ẩn dật như xưa, không bận lòng đến thế sự. Năm 1804, ông mất tại quê nhà trong niềm tiếc thương vô hạn của giới sĩ phu và người dân hiếu học.