9 hội và hiệp hội đồng loạt kiến nghị bỏ công bố hợp quy sản phẩm hàng hóa

Mới đây, 9 hội và hiệp hội đã cùng gửi công văn đến Tổng Bí thư Tô Lâm, đề nghị bỏ quy định công bố hợp quy sản phẩm hàng hóa vì gây khó khăn cho doanh nghiệp suốt thời gian dài.

Gây thêm áp lực, phiền hà cho doanh nghiệp

9 hội, hiệp hội ngành bao gồm Hiệp hội Phân bón Việt Nam, Hiệp hội Sữa Việt Nam, Hội Chăn nuôi Việt Nam, Hội Thú y Việt Nam, Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam, Hiệp hội Gia cầm Việt Nam, Hiệp hội Chăn nuôi gia súc lớn Việt Nam, Hiệp hội Thuốc Thú y Việt Nam, Hội Khoa học kỹ thuật An toàn thực phẩm Việt Nam.

9 hội, hiệp hội ngành hàng đồng kiến nghị Tổng Bí thư Tô Lâm về một số bất cập về điều kiện kinh doanh đã gần 20 năm qua gây khó khăn cho các doanh nghiệp

9 hội, hiệp hội ngành hàng đồng kiến nghị Tổng Bí thư Tô Lâm về một số bất cập về điều kiện kinh doanh đã gần 20 năm qua gây khó khăn cho các doanh nghiệp

Công văn nêu rõ: Cộng đồng doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng phấn khởi và tin tưởng vào chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc hoàn thiện thể chế, tháo gỡ điểm nghẽn của những điểm nghẽn để giải phóng tiềm năng của dân tộc và tranh thủ tối đa các nguồn lực của hợp tác quốc tế, đưa Đất nước vào Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh"..

Tuy nhiên, các hiệp hội cũng bày tỏ lo ngại khi cho rằng không phải tất cả các cơ quan bộ, ngành đều đã chia sẻ được với Đảng, Nhà nước và nhân dân, trong chấp hành những chủ trương vô cùng đúng đắn mà không ai có thể nói và nghĩ khác được trong vấn đề hoàn thiện thể chế, nhằm cắt giảm thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh và chi phí sản xuất.

Đáng chú ý, các hội và hiệp hội chỉ ra những bất cập kéo dài gần 20 năm của Luật Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật (Luật TCQC) và Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (Luật CLSP). Có thể nói, đây là 2 Luật “gốc” có mức độ và phạm vi ảnh hưởng rất lớn, quyết định toàn bộ cách thức tiếp cận và phương thức kiểm soát chất lượng, an toàn sản phẩm, hàng hóa và chi phí sản xuất sản phẩm hàng hóa Việt Nam– ảnh hưởng trực tiếp đến sức sản xuất của doanh nghiệp và sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa Việt Nam. Luật CLSP chi phối tới 79 luật và Luật TCQC chi phối tới 104 văn bản luật, pháp lệnh quản lý chuyên ngành trong hoạt động sản xuất, kinh doanh (SXKD) sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam.

9 hội, hiệp hội kiến nghị bỏ quy định công bố hợp quy sản phẩm hàng hóa vì tính hình thức, không hiệu quả, không phù hợp thông lệ quốc tế và gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Ảnh: Nguyễn Duyên

9 hội, hiệp hội kiến nghị bỏ quy định công bố hợp quy sản phẩm hàng hóa vì tính hình thức, không hiệu quả, không phù hợp thông lệ quốc tế và gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Ảnh: Nguyễn Duyên

Luật TCQC được ban hành năm 2006 và Luật CLSP ban hành năm 2007, sau gần 20 năm triển khai đã có tác dụng nhất định trong việc kiểm soát chất lượng, an toàn sản phẩm, hàng hóa của nước ta. Đến nay, do trình độ và năng lực sản xuất kinh doanh, sản phẩm hàng hóa của nước ta đã thay đổi; đất nước hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, nên nhiều quy định của hai Luật này không còn phù hợp, gây phát sinh nhiều chi phí sản xuất không cần thiết, bỏ lỡ nhiều cơ hội cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Ngoài các sản phẩm hàng hóa của khu vực FDI xuất khẩu có sức cạnh tranh cao (ít chịu tác động bởi các quy định hành chính, điều kiện sản xuất kinh doanh của 2 Luật này), còn phần lớn hàng hóa Việt Nam vẫn thuộc nhóm có khả năng cạnh tranh hạn chế, do giá thành cao (vì quá nhiều chi phí) và giá trị thấp (mức độ chế biến sâu và hàm lượng công nghệ chưa cao); hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu phần lớn vẫn là ở dạng thô, chế biến thấp…

Những bất cập chính của 2 Luật này là ở cách thức tiếp cận về phương thức quản lý, kiểm soát chất lượng, an toàn sản phẩm hàng hóa vẫn thiên về tiền kiểm, đưa ra quá nhiều thủ tục hành chính và điều kiện kinh doanh; quá đề cao vai trò của nhà nước, chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh và các hiệp hội ngành hàng với pháp luật và người tiêu dùng về chất lượng và an toàn sản phẩm của họ làm ra; chưa phù hợp với trình độ của khoa học công nghệ và thông lệ quốc tế hiện nay, là quản lý theo hệ thống, kiểm soát rủi ro, phân tích mối nguy và thừa nhận lẫn nhau… Trong đó, đặc biệt là việc quy định công bố hợp quy sản phẩm hàng hóa, đang là căn nguyên gây áp lực, phiền hà rất lớn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp trong nước.

Hiện Quốc hội đang xem xét sửa đổi 2 luật này nhằm tạo cơ hội tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tạo động lực mới cho hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển và nâng tầm thương hiệu Việt Nam. Tuy nhiên, các hội và hiệp hội nhận định, các Dự thảo mới chưa có đổi mới đáng kể so với luật cũ gần 20 năm trước, chưa đáp ứng được chủ trương của Đảng, Nhà nước về việc đơn giản hóa, giảm thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, chi phí sản xuất, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, từ kiểm soát hành vi sang kiểm soát hiệu quả và chưa theo kịp được với thực tiễn sản xuất trong nước và yêu cầu hội nhập, kinh nghiệm quốc tế.

Vấn đề này đã được cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng, các chuyên gia, nhà khoa học ở trong, ngoài nước và cả các Bộ ngành có nhiều lần phản ánh, kiến nghị lên các cơ quan của Chính phủ, Quốc hội trong suốt 5 năm qua, nhưng chưa được tháo gỡ và trong lần sửa chữa này cũng không được cơ quan soạn thảo tiếp thu.

Kiến nghị hợp nhất thành một Luật thống nhất

Trong công văn kiến nghị gửi tới Tổng bí thư Tô Lâm, 9 hội, hiệp hội đã kiến nghị một số điểm quan trọng:

Thứ nhất là hợp nhất 2 Luật trên thành 1 Luật thống nhất. Cụ thể, kiến nghị ghép Luật TCQC và Luật CLSP thành một luật, trong đó dành một số chương, điều quy định về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Nguyên nhân được đưa ra là khái niệm về chất lượng sản phẩm, hàng hóa hiện nay là đã bao hàm cả yếu tố an toàn sản phẩm của hàng hóa. Hiện nay nội dung của 2 Luật này đang có nhiều điểm trùng lặp, chồng chéo. Bên cạnh đó, tiêu chuẩn chất lượng và quy chuẩn kỹ thuật chỉ là một công cụ để quản lý, kiểm soát chất lượng và an toàn sản phẩm, hàng hóa. Việc ghép hai Luật này sẽ tiện lợi cho cơ quan quản lý, người dân, doanh nghiệp truy cập và thực hiện.

Thứ hai là bỏ quy định công bố hợp quy sản phẩm hàng hóa. Bởi đây là quy định rất hình thức, không có ý nghĩa trong hoạt động quản lý và không có nước nào trên thế giới áp dụng. Là căn nguyên gây rất nhiều khó khăn, tiêu cực cho người dân, doanh nghiệp.

Việc phải công bố hợp quy sản phẩm hàng hóa cũng phát sinh thêm thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, chi phí sản xuất, thời gian chờ đợi để hàng hóa đi vào sản xuất, lưu thông. Đồng thời tăng chi phí kiểm tra, thời gian thông quan, logicstis với hàng hóa nhập khẩu, do buộc phải lấy mẫu công bố hợp quy 100 % các lô hàng hóa trước thông quan (tiền kiểm). Trong gần 20 năm qua, quy định hợp quy sản phẩm hàng hóa đã gây khó khăn, phiền hà cho người dân, doanh nghiệp.

Thứ ba là kiểm soát chặt Danh mục mặt hàng nhóm 2 và các tiêu chí trong các quy chuẩn kỹ thuật. Lý do đưa ra là hiện nay có tình trạng các Bộ ngành đang lạm dụng đưa quá nhiều các loại hàng hóa thông thường vào danh mục hàng hóa nhóm 2 để quản lý, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân, doanh nghiệp. Tương tự như số lượng hàng hóa nhóm 2, tiêu chí của các quy chuẩn kỹ thuật cũng đang bị lạm dụng, nhiều lĩnh vực đưa toàn bộ chỉ tiêu của tiêu chuẩn chất lượng vào trong các QCKT, làm phát sinh rất nhiều khó khăn, chi phí cho người sản xuất trong chấp hành quy phạm pháp luật.

Để tránh sự lạm dụng này, các nước không quy định mặt hàng nhóm 2 như Việt Nam, mà quy định rõ là hàng hóa gây nguy hiểm “Dangerous Goods” và được giới hạn cụ thể trong luật, ví dụ Mỹ, EU quy định hàng hóa nguy hiểm có 9 loại, bao gồm: chất nổ, khí nén, chất lỏng dễ cháy, chất rắn dễ cháy, các chất oxi hóa và peroxide hữu cơ, các chất độc và chất nhiễm khuẩn, các chất phóng xạ, các chất ăn mòn và các chất có thể gây nguy hiểm khác về cháy nổ hoặc nguy hiểm cho sức khỏe khi phơi nhiễm trong môi trường.

Riêng Việt Nam quy định mặt hàng nhóm 2 với khái niệm rất rộng và lại giao cho các Bộ ban hành Danh mục hàng hóa nhóm 2 ở cấp thông tư, nên đã bị lạm dụng quá nhiều, có tới hàng ngàn loại sản phẩm hàng hóa được liệt vào nhóm 2, ví dụ hiện nay 100% các loại vật tư nông nghiệp của Việt Nam đều là mặt hàng nhóm 2, phải quản lý chặt bằng các QCKT gây nhiều khó khăn, chi phí cho người sản xuất.

"Đối với sản phẩm hàng hóa xuất khẩu, nhà nước không nên quy định cụ thể mà theo yêu cầu của nước nhập (như quy định hiện hành), nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Kinh nghiệm của Trung Quốc và các quốc gia xuất khẩu lớn đã và đang làm rất tốt" - các hội và hiệp hội kiến nghị.

Nguyễn Duyên

Nguồn Kiểm Toán: http://baokiemtoan.vn/9-hoi-va-hiep-hoi-dong-loat-kien-nghi-bo-cong-bo-hop-quy-san-pham-hang-hoa-38823.html
Zalo