80 năm giáo dục Việt Nam: Từ bình dân học vụ đến bình dân học vụ số
Với quan điểm 'giáo dục là quốc sách hàng đầu,' đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai, trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, giáo dục luôn được coi là nhiệm vụ trọng tâm, tiên phong.
“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, “vì sự nghiệp 10 năm thì phải trồng cây, vì sự nghiệp trăm năm thì phải trồng người,” tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong suốt 80 qua, kể từ ngày khai sinh lập quốc.
Với quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu,” “giáo dục phải đi trước một bước”, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai, trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, giáo dục luôn được coi là nhiệm vụ trọng tâm, tiên phong, từ phong trào bình dân học vụ để diệt giặc dốt trong những ngày đầu tiên giành lại độc lập đến phong trào bình dân học vụ số, xóa mù công nghệ số đang được triển khai rộng khắp cả nước hiện nay để đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Toàn dân diệt giặc dốt
Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Bác Hồ đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra trang sử hào hùng mới của dân tộc. Ngay hôm sau, ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên, Chính phủ đã thảo luận và tán thành 6 vấn đề cấp bách nhất do Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra, trong đó nhiệm vụ thứ hai là “mở chiến dịch chống nạn mù chữ.”
Người xác định vận mệnh dân tộc đang ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”, trong đó ba thách thức lớn nhất là “giặc đói”, “giặc dốt” và giặc ngoại xâm. Chính sách ngu dân để dễ bề cai trị của thực dân Pháp đã khiến 95% người dân Việt Nam mù chữ, tỷ lệ này ở phụ nữ thậm chí lên đến 99%, ở khu vực khó khăn lên đến 100%.

Người dân chong đèn học chữ trong những ngày đầu đất nước giành độc lập. (Ảnh: TTXVN)
Chỉ sau đó chưa đầy một tuần, ngày 8/9/1945, có đến 5 sắc lệnh về giáo dục đã được ban hành cùng lúc, trong đó sắc lệnh số 17/SL thành lập Nha Bình dân học vụ, quy định mọi người phải ra sức diệt giặc dốt, đặt nhiệm vụ thanh toán nạn mù chữ lên hàng đầu; sắc lệnh số 19/SL hạn trong 6 tháng, làng nào, thị trấn nào cũng phải có ít nhất 1 lớp học bình dân dạy được ít nhất 30 người; sắc lệnh số 20/SL quy định việc bắt buộc học chữ Quốc ngữ trong toàn quốc, quy định học không mất tiền, đặt mục tiêu trong một năm, tất cả mọi người Việt Nam từ 8 tuổi trở lên phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ. Ngày 14/9/1945, Chính phủ ban hành nghị định bãi bỏ tất cả các loại học phí và lệ phí thi cử ở tất cả các bậc học. Tháng 6/1946, Chính phủ ra sắc lệnh số 110/SL mở lớp huấn luyện cán bộ bình dân học vụ cho các đại biểu dân tộc thiểu số để lan tỏa phong trào về vùng khó.
Cùng với các sắc lệnh, ngày 14/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân “chống nạn thất học”, “người biết chữ hãy dạy cho người chưa biết chữ, hãy góp sức vào bình dân học vụ, người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học…”
Từ chủ trương của Đảng và lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào bình dân học vụ, diệt giặc dốt đã lan tỏa, phát triển mạnh mẽ trên khắp mọi miền Tổ quốc, đến từng thôn, bản, ngõ xóm, trở thành phong trào quần chúng rộng rãi với nhiều cách làm sáng tạo, linh hoạt.

Hàng nghìn thanh niên Hà Nội xung phong về các vùng nông thôn để dạy chữ. Ảnh: TTXVN)
Các lớp học xóa mù chữ được mở khắp nơi, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, từ đình làng, sân chùa, quán chợ đến bến thuyền, trên cánh đồng, dưới gốc cây… Bảng là ván gỗ, nền đất, sàn gạch, tàu chuối, lưng trâu… Phấn từ gạch non, than củi, vôi trắng… Bút từ cây tre, cây nứa, mực từ quả mùng tơi…
Chỉ trong vòng một năm đã có hơn 95.000 người xung phong làm giáo viên, hơn 75.800 lớp học được mở, có 2,5 triệu cuốn sách được in, hơn 3 triệu người dân biết chữ.
Tháng 12/1946, Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ nhưng phong trào bình dân học vụ vẫn tiếp tục duy trì nhằm nâng cao dân trí dù gặp muôn vàn khó khăn do sự đàn áp của kẻ thù.
Vì sự nghiệp trăm năm trồng người
Ngay khi đất nước vẫn còn đang chìm trong khói lửa chiến tranh, vấn đề đào tạo nhân lực để phát triển, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc đã được Đảng và Bác Hồ đặc biệt quan tâm.
Cuộc cải cách giáo dục đầu tiên được thực hiện năm 1950, chuyển hệ thống giáo dục từ 12 năm (chế độ thuộc địa) sang hệ thống giáo dục 9 năm để đáp ứng yêu cầu đào tạo nhân lực trong bối cảnh chiến tranh.

Lớp học giữa rừng Điện Biên những năm 1960. (Ảnh: NVCC)
Năm 1954, sau khi miền Bắc được giải phóng, với quyết tâm đưa miền núi tiến lên cùng với miền xuôi xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc, làm cơ sở vững chắc cho đấu tranh thống nhất nước nhà, Bác Hồ đã ra lời kêu gọi giáo viên miền xuôi xung phong lên miền núi dạy học, đem ánh sáng của Đảng phát triển kinh tế, văn hóa vùng cao. Ngày 15/8/1959, Chính phủ ban hành Thông tư số 3116 –A7 về việc điều động giáo viên cấp 1, 2, 3 ở các tỉnh miền xuôi lên miền núi công tác, nhằm giải quyết vấn đề thiếu giáo viên và góp phần phát triển văn hóa giáo dục miền núi. tháng 9/1959, đoàn 860 giáo viên tình nguyện đầu tiên của các tỉnh, thành phố miền xuôi đã sẵn sàng khoác balo lên đường đến vùng cao với nhiệm vụ lớn lao là đem tri thức thắp sáng đồng bào, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi.
Là một trong 860 giáo viên tình nguyện đến với vùng cao năm 1959, thầy Nguyễn Minh Tranh cho hay giáo dục ở hầu hết các xã vùng cao khi đó đều là những con số 0 tròn trĩnh: Không trường, không lớp, không giáo viên, không bảng đen, phấn trắng, nên nhiệm vụ đầu tiên của các giáo viên tình nguyện là dựng trường, mở lớp. Từ những lớp học i tờ của hàng nghìn giáo viên miền xuôi trên khắp các bản làng vùng cao đã không chỉ xóa mù chữ mà còn đào tạo nguồn cán bộ chất lượng cho đất nước, đặc biệt là cho các tỉnh miền núi phía Bắc.

Thầy Nguyễn Minh Tranh chia sẻ về những ngày băng rừng chặt tre, dựng lớp, mở trường để xóa mù chữ cho đồng bào vùng cao Tây Bắc. (Ảnh: Phạm Mai/Vietnam+)
Cũng với tầm nhìn chiến lược về đào tạo cán bộ, năm 1954, ngay sau khi hiệp định Geneva được ký kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Chính phủ chủ trương đưa học sinh là con em cán bộ, chiến sỹ, đồng bào miền Nam ra miền Bắc học tập để xây dựng lực lượng cán bộ kế cận cho cách mạng. Khoảng 32.000 học sinh miền Nam đã được tập kết ra Bắc, hình thành nên hệ thống “vườn ươm” đặc biệt – hệ thống 28 trường học sinh miền Nam trên đất Bắc.
Những "hạt giống đỏ" được ươm trồng trên đất Bắc sau này đã quay về xây dựng miền Nam, trở thành lực lượng nòng cốt, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng. Nhiều người trong số họ đã thành các cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, các nhà khoa học, nhà giáo, nghệ sỹ, doanh nhân có uy tín, đóng góp nhiều cho xã hội.
“Tầm nhìn chiến lược của Bác Hồ và Trung ương khi đó là hết sức sáng suốt,” Tiến sỹ Mai Liêm Trực, nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Bưu chính Viễn thông (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông), nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện, một trong số 32.000 học sinh miền Nam trên đất Bắc chia sẻ.
Bên cạnh việc đưa con em cán bộ miền Nam ra Bắc đào tạo, từ đầu những năm 1960, để đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục cho học sinh và đồng bào miền Nam, chuẩn bị lực lượng trí thức xây dựng và phát triển đất nước sau giải phóng đồng thời đấu tranh với địch trên mặt trận văn hóa giáo dục, Đảng và Bác Hồ đã cử nhiều đoàn giáo viên tình nguyện vào Nam dựng trường, mở lớp. Trên tuyến đường Hồ Chí Minh huyền thoại không chỉ in dấu chân của những anh bộ đội từ miền Bắc chi viện cho tiền tuyến mà còn có cả dấu chân của gần 3.000 nhà giáo. Họ đã tình nguyện gác lại gia đình, sự nghiệp, mang sách vở, bút nghiên xẻ dọc Trường Sơn, mang tri thức đến với học trò miền Nam đang chìm trong khói lửa.
Ngày nhà giáo Đỗ Trọng Văn lên đường đi B, con nhỏ mới tròn 8 tháng, con lớn chập chững lên ba. “Nhớ và thương rất rất nhiều, nhưng chúng tôi lúc đó đều hiểu khi Tổ quốc cần, mỗi người đều phải gác lại hạnh phúc riêng, hàng trăm nhà giáo đã ngã xuống,” thầy Văn xúc động nói. Và với sự hy sinh thầm lặng ấy, những mái trường đã mọc lên khắp miền Nam, dưới tán dừa, trong hầm trú ẩn hay giữa rừng sâu, bất chấp bom đạn kẻ thù.

Bà Diệp Ngọc Sương, một cựu học sinh miền Nam xúc động xem lại những bức ảnh chụp các học trò miền Nam trong những năm tháng học tập trên đất Bắc. (Ảnh: Minh Thu/TTXVN)
Không chỉ phát triển hệ thống giáo dục trong nước, công tác đào tạo cán bộ chất lượng cao cũng được Đảng, Bác Hồ đặc biệt quan tâm.
Năm 1951, từ khu đầu não kháng chiến Tân Trào, dưới tán rừng già, Bác Hồ đã ân cần dặn dò 21 cán bộ, học sinh đầu tiên chuẩn bị được cử sang Liên Xô học tập. Năm 1960, Chính phủ ra Thông tư số 95-TTg về việc chọn học sinh gửi đi học chuyên môn ở các nước anh em.
Thông tư nêu rõ: “Hiện nay, nhiệm vụ đào tạo cán bộ của ta rất lớn và rất cấp bách. Trước hết cần ra sức đào tạo những cán bộ công nông, cán bộ chính trị và học sinh tốt thành một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ chuyên môn tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa xã hội, hết lòng hết sức phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà. Căn cứ tình hình lưu học sinh đã gửi đi học ở các nước anh em trong những năm vừa qua và tình hình đào tạo cán bộ ở các trường đại học và chuyên nghiệp trong nước, Thủ tướng thấy rằng từ nay, hàng năm cần phải mạnh dạn gửi thêm nhiều cán bộ và học sinh ra nước ngoài học tập.”
Hàng nghìn cán bộ, học sinh được cử ra nước ngoài học tập đã trở thành những nhà khoa học đầu ngành, bệ đỡ cho sự phát triển đất nước sau này. Những cái tên đã trở thành tượng đài khoa học Việt Nam, không chỉ là những nhà khoa học đầu ngành ở trong nước mà còn vươn tầm quốc tế như Giáo sư Hoàng Tụy, Giáo sư Nguyễn Văn Hiệu, Giáo sư Võ Tòng Xuân…
Vươn mình và hội nhập
Theo Giáo sư Trần Xuân Nhĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, trải qua 80 năm hình thành và phát triển cùng đất nước, ngành giáo dục đã có đóng góp to lớn trong việc nâng cao dân trí và xây dựng đội ngũ cán bộ cho đất nước.

Giáo sư Trần Xuân Nhĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Giáo dục Việt Nam đã không ngừng phát triển với 4 lần cải cách và rất nhiều đổi mới để thích ứng với nhiệm vụ trong từng giai đoạn lịch sử của dân tộc đồng thời vươn mình hội nhập quốc tế sâu rộng.
Giáo sư Trần Xuân Nhĩ nhận định thành công nhất của giáo dục là sự phát triển về số lượng, hệ thống cơ sở giáo dục rộng khắp để ai có nhu cầu cũng được đi học. Nếu trước đây, cả huyện chỉ có một trường tiểu học thì hiện nay, mang lưới trường lớp từ mầm non đển trung học phổ thông đã phủ khắp các bản làng với hơn 41.000 trường. Nếu trước đây cả nước chỉ có một trường cao đẳng Đông Dương thì hiện nay đã có hơn 230 trường đại học, hàng trăm trường cao đẳng cùng mạng lưới các trường nghề.
Nghị quyết 29 năm 2013 của Trung ương Đảng về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục với chương trình giáo dục phổ thông mới đã là một cải cách mạnh mẽ về giáo dục khi chuyển từ dạy truyền thụ kiến thức sang hình thành phẩm chất, năng lực người học, để tạo nên những công dân Việt Nam mới có đầy đủ kiến thức và kỹ năng.
Không chỉ phát triển về số lượng, chất lượng giáo dục cũng ngày càng được nâng lên. Ở giáo dục phổ thông, trong giáo dục mũi nhọn, các đội tuyển Olympic quốc tế của Việt Nam luôn nằm trong tốp đầu thế giới. Mới đây nhất, đội tuyển Olympic Toán Việt Nam xếp thứ 9 trong số 113 quốc gia và vùng lãnh thổ tham dự Kỳ thi Olympic Toán Quốc tế với 2 huy chương Vàng, 3 huy chương Bạc, 1 huy chương Đồng; đội tuyển Olympic Hóa học đạt kỳ tích chưa từng có khi lần đầu tiên trong lịch sử giành 4 huy chương Vàng trong một kỳ thi Olympic Hóa học quốc tế được tổ chức trực tiếp. Giáo dục đại trà cũng khẳng định chất lượng với điểm đánh giá PISA năm 2022 xếp thứ 34 trên tổng số 81 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia đánh giá.

Đội tuyển Việt Nam giành 4 huy chương Vàng trong kỳ thi Olympic Hóa học quốc tế năm 2025. (Ảnh: Bộ GD-ĐT)
Ở giáo dục đại học, từ năm 2018, Việt Nam đã có hai đại học đầu tiên lọt tốp 1.000 đại học tốt nhất thế giới là Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh. Từ năm 2018 đến nay, danh sách này ngày càng dài hơn mỗi năm. Các trường đại học Việt Nam đã khẳng định chất lượng đào tạo khi thu hút hàng nghìn du học sinh quốc tế đến học tập và trao đổi mỗi năm, liên kết đào tạo với nhiều trường trên thế giới.
“Đặc biệt, năm 2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đã yêu cầu ngành giáo dục triển khai dạy học 2 buổi/ngày ở bậc tiểu học và trung học cơ sở, miễn học phí cho học sinh từ mầm non đến trung học phổ thông, xây dựng nghị quyết mang tính đột phá để tháo gỡ các điểm nghẽn trong giáo dục, xây dựng trường nội trú liên cấp cho vùng biên giới... Đây đều là những điều mà ngành giáo dục mơ ước từ lâu. Với những quyết sách sáng suốt và sự chỉ đạo quyết liệt của Tổng Bí thư, chắc chắn giáo dục Việt Nam sẽ phát triển sang một giai đoạn mới rực rỡ hơn, đất nước sẽ có nguồn nhân lực chất lượng hơn nữa khi bước vào kỷ nguyên mới,” Giáo sư Trần Xuân Nhĩ nói.
Bình dân học vụ số - cầu nối quá khứ và tương lai
Không chỉ đặc biệt chú trọng đến phát triển giáo dục trong các nhà trường với hàng loạt chính sách mạnh mẽ, cụ thể và thiết thực, Tổng Bí thư Tô Lâm còn đặc biệt nhấn mạnh ý nghĩa, vai trò của học tập suốt đời, xã hội học tập, đặc biệt trong giai đoạn cách mạng 4.0.
Trong bài viết về “Học tập suốt đời” ngày 2/3/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định học tập suốt đời không phải vấn đề mới. Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào toàn dân, toàn quân xóa nạn mù chữ. Trong các giai đoạn cách mạng, đặc biệt trong những năm đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm, khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng cả nước thành xã hội học tập.

Người dân Cà Mau học sử dụng thiết bị công nghệ trong phong trào Bình dân học vụ số. (Ảnh: TTXVN)
Tổng Bí thư khẳng định: “Cách mạng 4.0 đang diễn ra với quy mô và tốc độ chưa từng có, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức, chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số khiến một phần nội dung giảng dạy tại nhà trường hôm nay có thể thành lạc hậu, lỗi thời sau vài năm; hơn thế, những điều phổ biến hiện nay thì 10 năm trước còn chưa xuất hiện và có 65% những công việc hiện nay sẽ bị thay thế bởi công nghệ trong những năm tới.
Với thế giới phức tạp, không ổn định và biến đổi khôn lường, tri thức phải không ngừng được bổ sung, tuổi thọ con người dài hơn, thời gian về hưu đủ dài, buộc người cao tuổi phải học và hoạt động để không bị lạc hậu với xã hội hiện đại.
Trong bối cảnh đó, học tập suốt đời trở thành một quy luật sống; không chỉ giúp mỗi cá nhân nhận biết, thích nghi, không tụt hậu trước sự biến đổi từng ngày của thế giới hiện tại, làm giàu trí tuệ, hoàn thiện nhân cách, vượt qua khó khăn, thử thách để ngày càng tiến bộ và định vị bản thân trong xã hội hiện đại; cao hơn, đây là chìa khóa quan trọng để nâng cao dân trí và đào tạo nhân lực, thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội, là con đường duy nhất, hướng đi tất yếu của mọi quốc gia để đảm bảo sự phát triển thịnh vượng, bền vững.”
Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh một trong những nhiệm vụ cần làm ngay là phát động thực hiện phong trào “bình dân học vụ số”.
Thực hiện chỉ đạo này, ngày 26/3, Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đã tổ chức lễ phát động phong trào và ra mắt nền tảng “Bình dân học vụ số”.

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Lễ phát động phong trào bình dân học vụ số. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN)
Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định phong trào "Bình dân học vụ số" được truyền cảm hứng và kế thừa, phát huy từ phong trào "Bình dân học vụ" do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động – một biểu tượng của lòng quyết tâm, ý chí, tinh thần đoàn kết giúp người dân thoát khỏi bóng tối mù chữ, tiếp cận tri thức và đưa dân tộc Việt Nam phát triển để có cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín như ngày nay.
Trong bối cảnh hiện nay, chuyển đổi số là yêu cầu khách quan, lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu, không thể không nói đến quốc gia số, xã hội số, công dân số toàn diện, toàn trình và như vậy không thể không có phong trào “Bình dân học vụ số.”
Theo đó, Thủ tướng nhấn mạnh đây không chỉ là một sáng kiến giáo dục mà còn là cầu nối giữa quá khứ và tương lai, phát huy bài học lịch sử, phấn đấu xây dựng một xã hội không chỉ giàu tri thức mà còn giàu sức mạnh công nghệ, sẵn sàng hội nhập, phát triển.
"Đất nước đang đứng trước cơ hội lịch sử để bước vào kỷ nguyên mới, phát triển mạnh mẽ với động lực chính đến từ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Chúng ta phải thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, đó là, phổ cập tri thức, công nghệ về chuyển đổi số, kỹ năng số cho toàn dân, tức là ‘xóa mù’ về chuyển đổi số", Thủ tướng nêu rõ.
Theo đó, bên cạnh các quyết sách từ Chính phủ, Thủ tướng kêu gọi mọi người dân chủ động học hỏi, sẵn sàng chia sẻ, ứng dụng tri thức số, cùng xây dựng một xã hội tiến bộ trong kỷ nguyên mới. Phong trào "Bình dân học vụ số" phải trở thành một phong trào cách mạng, toàn dân, toàn diện, sâu rộng, không ai bị bỏ lại phía sau với tinh thần “đi từng ngõ, đến từng nhà, hướng dẫn từng người” và phương châm “triển khai nhanh chóng-kết nối rộng khắp-ứng dụng thông minh.”
Với sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm và phát động của Thủ tướng Chính phủ, phong trào bình dân học vụ số đang phát triển sâu rộng trên cả nước với sự vào cuộc mạnh mẽ của tất cả các địa phương, các bộ, ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức, doanh nghiệp và từng cá nhân, đánh dấu bước ngoặt trong việc việc phổ cập tri thức và kỹ năng số toàn dân và là nền tảng để cả nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên số, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

Giáo dục Việt Nam vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. (Ảnh: PV/Vietnam+)