Yêu cầu của Tổng Bí thư và quyền tự do kinh doanh của Nhân dân
Khi số lượng quy định về điều kiện kinh doanh quá nhiều mà chất lượng lại thấp chính là biểu hiện rõ nét của tư duy 'không quản được thì cấm', tạo ra hệ thống pháp luật thiên về kiểm soát hơn là kiến tạo, tạo cơ hội và không gian phát triển.
Có thể xóa tan thành tựu của Nghị định 15/2018/NĐ-CP
Trong cuộc tọa đàm gần đây về sửa đổi Nghị định 15/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật An toàn thực phẩm, một vị đại diện doanh nghiệp FDI đã bày tỏ sự bất lực rằng: “Như vậy, quy định trong dự thảo có thể xóa tan thành tựu của Nghị định 15/2018/NĐ-CP, thậm chí gây tốn kém hơn nữa”.
Để chứng minh, ông phân tích, dự thảo quy định tổng cộng 31 nội dung doanh nghiệp phải tự công bố, cao hơn nhiều so với 5 nội dung, theo Nghị định 15 hiện hành.
Bên cạnh đó, vẫn theo Nghị định 15, doanh nghiệp được sản xuất, kinh doanh ngay sau khi nộp hồ sơ. Trong khi đó, theo dự thảo sửa đổi, sau khi doanh nghiệp nộp hồ sơ, trong 7 ngày cơ quan quản lý sẽ đăng tải lên website, và trong vòng 3 tháng sau khi đăng tải sẽ soát xét hồ sơ. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp chỉ được sản xuất sau 3 tháng 7 ngày.
Xin kể lại vắn tắt tinh thần cải cách của Nghị định 15. Trước đây, Nghị định 38/2012/NĐ-CP về an toàn thực phẩm thuộc thẩm quyền của Bộ Y tế yêu cầu doanh nghiệp phải xin cấp Giấy tiếp nhận bản công bố hoặc Giấy xác nhận công bố thì mới được tiến hành sản xuất, kinh doanh.

Quá trình cải cách thể chế trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm quả là gian nan. Ảnh: Nam Khánh
CIEM ước tính mỗi năm có từ 35.000 đến 45.000 lượt doanh nghiệp phải làm thủ tục này. Trung bình, doanh nghiệp sẽ mất khoảng 4 tháng với chi phí 10 triệu đồng đối với thực phẩm thường và 30 triệu đồng đối với thực phẩm chức năng để hoàn tất thủ tục chứng nhận và công bố sự phù hợp.
Yêu cầu này, cùng rất nhiều yêu cầu khác, đã gây bức xúc cho cộng đồng doanh nghiệp trong một thời gian dài.
Sau nhiều nỗ lực của Chính phủ, Nghị định 15/2018/NĐ-CP được ban hành thay thế Nghị định 38, với phương pháp quản lý an toàn thực phẩm chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm.
Thay vì phải xin xác nhận từ cơ quan Nhà nước, nay các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm được tự công bố. Sự thay đổi này giúp giảm đến 90% chi phí hành chính, tiết kiệm 10 triệu ngày công và 3.700 tỷ đồng mỗi năm cho doanh nghiệp, theo tính toán của Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham).
Kể lại câu chuyện này để thấy quá trình cải cách thể chế trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm quả là gian nan. Lẽ ra, doanh nghiệp cần tập trung nguồn lực để nghiên cứu, phát triển, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, hơn là suốt ngày phải lo về thủ tục hành chính như thế này.
Điều kiện kinh doanh núp bóng tiêu chuẩn, quy chuẩn
Điều kiện kinh doanh đã nở rộ như nấm sau mưa, như chúng tôi đã phân tích trong bài “Bảo vệ quyền tự do kinh doanh”. Trên thực tế, các điều kiện kinh doanh còn “núp bóng” hoặc “ẩn” trong tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.
Một số quy chuẩn kỹ thuật yêu cầu doanh nghiệp phải có cơ sở vật chất nhất định, đáp ứng diện tích tối thiểu của các cơ sở sản xuất, hay yêu cầu chứng chỉ hành nghề của nhân sự ở một số bộ phận… khi sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ.
Những quy chuẩn “núp bóng” đó, về bản chất, chính là các điều kiện kinh doanh. Chẳng hạn, từng có đề xuất quy định điều kiện về diện tích, cơ sở vật chất… đối với siêu thị mini, cửa hàng tiện lợi và trung tâm thương mại. Không rõ những quy định như trên có mục tiêu quản lý nhà nước ra sao, nhưng rõ ràng chúng ảnh hưởng đến lợi ích của các bên liên quan, trước hết là những người đầu tư kinh doanh thương mại.
VCCI tính toán, mỗi năm có khoảng 20 luật, gần 150 nghị định và khoảng 600 thông tư được ban hành. Bên cạnh đó là hàng nghìn công văn điều hành, trong đó không ít công văn có chứa đựng quy phạm pháp luật.
Văn bản hướng dẫn thi hành các luật quá nhiều về số lượng, chồng chéo, trùng lặp, hay thay đổi về nội dung, gây nguy cơ tùy ý và khó dự đoán trong thực thi, tạo rủi ro cho doanh nghiệp và người dân.
Câu hỏi đặt ra là liệu có xuất hiện tình trạng khôi phục lại các điều kiện kinh doanh đã được bãi bỏ, hoặc ban hành mới các quy định bất hợp lý về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật như trường hợp dự thảo Nghị định 15 nói trên - trong “rừng” văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, gây cản trở cho doanh nghiệp?.
Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh trong bài viết "PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN – ĐÒN BẨY CHO MỘT VIỆT NAM THỊNH VƯỢNG" rằng: Kinh tế tư nhân phải là lực lượng tiên phong trong kỷ nguyên mới, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia... Kinh tế tư nhân cần phấn đấu trở thành lực lượng chủ lực, đi đầu trong ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo, để đạt mục tiêu đóng góp khoảng 70% GDP vào năm 2030…
Ông khẳng định, điều này đòi hỏi một sự thay đổi căn bản trong hoạch định chính sách,... Vì thế, Nhà nước phải có phương thức quản lý phù hợp với cơ chế thị trường, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản và quyền cạnh tranh bình đẳng của kinh tế tư nhân. Cần xóa bỏ mọi rào cản, minh bạch hóa chính sách, loại bỏ lợi ích nhóm trong hoạch định chính sách và phân bổ nguồn lực, không phân biệt đối xử giữa khu vực kinh tế tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong mọi chính sách.
Đồng thời, cần nhất quán quan điểm “mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”, xây dựng chính sách làm yên lòng các nhà đầu tư, doanh nghiệp và doanh nhân. Quan trọng hơn, phải tạo dựng niềm tin mạnh mẽ giữa Nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân, qua đó khuyến khích doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, đổi mới sáng tạo và tham gia vào các lĩnh vực kinh tế có tính chiến lược.
Doanh nghiệp, người dân trong nước gặp quá nhiều rào cản kinh doanh như vậy thì làm sao phát triển, lớn lên để trở thành động lực quan trọng nhất?.
Cũng xin trích dẫn những phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm đang tạo nên sự thay đổi lớn để đất nước bước vào kỷ nguyên mới:
Thứ nhất, thể chế hiện nay là “điểm nghẽn của điểm nghẽn” đối với phát triển; đột phá thể chế là “đột phá của đột phá”.
Thứ hai, phải từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm” trong xây dựng pháp luật; đề cao phương pháp “quản lý theo kết quả”… và chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, tạo không gian mới và động lực phát triển.
Thứ ba, luật pháp không chỉ để quản lý mà còn phải khuyến khích đổi mới, sáng tạo, thúc đẩy phát triển, tạo cơ hội và mở rộng không gian phát triển.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống pháp luật… nhanh chóng khắc phục những chồng chéo, bất cập trong hệ thống hiện hành, tạo nền tảng pháp lý ổn định, dễ tuân thủ. Tinh thần là: một vấn đề, một nội dung chỉ quy định tại một luật; doanh nghiệp được tự do kinh doanh những gì pháp luật không cấm, còn cơ quan Nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép.
Thứ năm, phân cấp mạnh, toàn diện cho địa phương theo hướng “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”.
Đề cao nguyên tắc thị trường trong huy động và phân bổ nguồn lực, đồng thời loại bỏ cơ chế “xin - cho” và tư duy bao cấp.
Không thể hạn chế quyền tự do kinh doanh của dân
Cần nhận thức rõ rằng các điều kiện kinh doanh, về bản chất, là rào cản hạn chế gia nhập thị trường. Càng có nhiều quy định về điều kiện kinh doanh thì càng lớn cản trở đối với cạnh tranh lành mạnh, đổi mới sáng tạo và phát triển, đặc biệt đối với khu vực kinh tế tư nhân.
Khi số lượng quy định về điều kiện kinh doanh quá nhiều mà chất lượng lại thấp chính là biểu hiện rõ nét của tư duy “không quản được thì cấm”, tạo ra hệ thống pháp luật thiên về kiểm soát hơn là kiến tạo, tạo cơ hội và không gian phát triển.
Vì vậy, cần phải triệt để tháo bỏ những “điểm nghẽn” do các quy định về điều kiện kinh doanh các ngành nghề gây ra trong những Luật chuyên ngành để đảm bảo quyền tự do kinh doanh đã được hiến định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Khoản 2, Điều 14, Hiến pháp 2013).
Rà soát tất cả các quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và các điều kiện kinh doanh tương ứng trong Luật Đầu tư và pháp luật chuyên ngành. Chỉ giữ lại các ngành nghề kinh doanh có điều kiện thuộc phạm vi điều chỉnh theo khoản 2 Điều 14 của Hiến pháp năm 2013 và quản lý theo hình thức cấp giấy phép, giấy chứng nhận.
Thực hiện chương trình “cách mạng” về tinh giản quy định pháp luật, minh bạch hóa, số hóa và tự động hóa các quy trình, thủ tục hành chính đối với người dân, doanh nghiệp và tổ chức khác. Chương trình này cần được triển khai trên nền tảng ứng dụng rộng rãi công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn…, hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia có môi trường kinh doanh thuộc nhóm dẫn đầu Đông Nam Á, với thể chế trở thành năng lực cạnh tranh vượt trội trong khu vực.