Ý niệm về Độc lập, Tự do và Hạnh phúc
Dưới cái nhìn khách quan và lắng đọng, nội hàm của độc lập, tự do, và hạnh phúc là nội hàm tỏa sáng nhất của các thể chế chính trị xưa nay có thể có.
LTS. Độc lập, Tự do, và Hạnh phúc là ba từ thiêng liêng gắn liền với quốc hiệu Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Đây là một trong những bài viết của Trưởng lão Hòa thượng Thích Chơn Thiện, Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự, Viện trưởng Học viện Phật giáo VN tại Huế, Đại biểu Quốc hội các khóa XI, XII, XIII, XIV…
***
Nhận thức về sự có mặt của các sự vật
Mọi sự vật trong thế giới hiện tượng đều do tổ hợp của các điều kiện (condition, cause). Mỗi sự vật là điều kiện hình thành các sự vật khác. Không có một sự vật nào tự có, ngẫu nhiên có, hay chỉ do một điều kiện mà có.
Mỗi sự vật theo tánh tự nhiên có cá tính riêng biệt, khác với các sự vật khác. Nó vừa độc lập vừa tương quan. Nếu yếu tính độc lập hay tương quan bị rối loạn, thì sự tồn tại và phát triển của sự vật bị rối loạn. Con người cũng thế. Con người được hình thành từ sự kết hợp tinh khí của bố mẹ trong thời kỳ bà mẹ có thể thụ thai, và những yếu tố phi vật chất khác. Thai nhi phát triển nhờ máu của mẹ chuyển hóa từ thực phẩm; trẻ ra đời sống nhờ sữa của mẹ, lớn lên, phát triển và tồn tại nhờ thực phẩm; thực phẩm thì do các điều kiện tổ hợp mà sinh, bao gồm ảnh hưởng của ánh sáng mặt trời và môi trường sống. Nếu cơ thể vật lý, hay tâm lý, của cá nhân bị rối loạn, thì sự tồn tại và phát triển của cá nhân bị rối loạn gây ảnh hưởng tiêu cực dây chuyền đến gia đình, xã hội và môi sinh. Nếu tha nhân hay môi trường sống tác động nghịch hướng với phát triển của cá nhân, thì sự tồn tại và phát triển của cá nhân sẽ bị đe dọa.
Sự tồn tại và phát triển của một quốc gia cũng thế, cần đến các thuận duyên cho sự ổn định và phát triển của yếu tố độc lập và yếu tố tương quan với khu vực và thế giới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Vua Lào và lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta lễ Phật tại chánh điện chùa Quán Sứ, Hà Nội
Tính nhân văn và dân chủ của văn hóa Việt Nam trong cận đại và hiện đại
Suốt một trăm năm dưới sự thống trị của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam sống rất lầm than. Phong trào cứu quốc nở rộ khắp nước từ đầu thế kỷ XX. Người thanh niên rất ưu việt Nguyễn Sinh Cung mở đường Tây du giữa vạn gian khổ để tìm hiểu về đế quốc xâm lược, và tìm hiểu tinh thần Cách mạng 1789 của trí thức và nhân dân Pháp, cái tinh thần giải phóng đã xô ngã một chế độ phong kiến của bất công, áp bức, bị chi phối mạnh mẽ của Giáo hội Pháp: Đó là tinh thần nhân văn, dân chủ.
Franc – Maconnerie nêu cao phong cách tiêu biểu của Công lý và Đức hạnh (hay sự thuần khiết của tâm hồn, sự xả thân và sự khiêm cung). Hiến pháp dân chủ của Pháp, Hoa Kỳ đều có nội hàm đẫm ướt tinh thần dân chủ, nhân văn từ khước xâm lược, bất công, áp bức – phần lớn trí tuệ của nội hàm đến từ những nạn dân khốn khổ của những tòa án Dị giáo: thiêu sống, treo cổ, bêu đầu, kéo dài cả nghìn năm, hoặc hàng trăm năm (phản thệ giáo). Hướng tư tưởng nhân văn, dân chủ ấy đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tư duy ưu việt của người thanh niên Việt Nam có viễn kiến phi thường Nguyễn Sinh Cung.
Hiến pháp Việt Nam năm 1946 ghi:
“Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa”.
(Điều 6)
“Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình”.
(Điều 7)
“Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”.
(Điều 9)
“Công dân Việt Nam có quyền:
- Tự do ngôn luận
- Tự do xuất bản
- Tự do tổ chức và hội họp
- Tự do tín ngưỡng
- Tự do cư trú, đi lại trong nước và nước ngoài”.
(Điều 10)
Lời đầu của Hiến pháp có đoạn ghi:
“… Với tinh thần đoàn kết, phấn đấu sẵn có của toàn dân, dưới chính thể dân chủ rộng rãi, nước Việt Nam độc lập, thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh phúc cùng với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hòa bình của nhân loại”.
Tất cả đã được cô kết vào ba danh từ thiêng liêng, rất thiêng liêng, là Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, gắn liền với quốc hiệu Việt Nam, mà không phải ghi lại tinh thần dân chủ của một Hiến pháp nào. Chỉ riêng từ hạnh phúc đã thực sự mở ra một nội dung văn hóa, giáo dục phong phú của Việt Nam vừa hiện tại, vừa miên viễn trong tương lai.
Tất cả đã được cô kết vào ba danh từ thiêng liêng, rất thiêng liêng, là Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, gắn liền với quốc hiệu Việt Nam, mà không phải ghi lại tinh thần dân chủ của một Hiến pháp nào. Chỉ riêng từ hạnh phúc đã thực sự mở ra một nội dung văn hóa, giáo dục phong phú của Việt Nam vừa hiện tại, vừa miên viễn trong tương lai.
Quốc hiệu “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” hay “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, đều có nội hàm Dân chủ và Cộng hòa. Cộng hòa không có ý nghĩa của nhị nguyên tính (Dualism), không có ý nghĩa Cộng hòa là đối lập với Dân chủ (như bảo thủ đối với cấp tiến), mà là Cộng hòa của “Dân chủ và Cộng hòa” mang cốt lõi Độc lập, Tự do, Hạnh phúc đầy tính dân chủ và nhân văn của nhận thức về tính “vừa độc lập, vừa tương quan của các sự vật”. Yếu tính độc lập của quốc gia là độc lập, tự chủ; yếu tính tương quan của quốc gia đối với khu vực và thế giới là hợp tác (các bên đều có lợi).
Hiện nay Việt Nam đang thực hiện “pháp chế xã hội chủ nghĩa” thực thi đầy đủ các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, và báo chí (không tách rời, không độc lập theo ý nghĩa của tư duy nhị nguyên - dualism), nhưng đặt tất cả vào trách nhiệm vận hành thống nhất của Đảng.
Ý niệm về Độc lập, Tự do, và Hạnh phúc
Độc lập (Independence/Indépendance)
Độc lập có nghĩa là không tùy thuộc, không lệ thuộc; có cá tính riêng (độc lập). Như thảo mộc thì khác với loài động vật. Loài thảo mộc này thì khác với thảo mộc kia; động vật này khác với động vật kia.
Tính độc lập của quốc gia là tính độc lập của văn hóa, chủ quyền, và sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ.
Nếu cá nhân mất tính độc lập thì sẽ mất tự do; mất tự do cá nhân thì sẽ mất trách nhiệm cá nhân; không có trách nhiệm cá nhân thì luật pháp sẽ không có chỗ để thi hành, cuộc đời sẽ đại loạn.
Nếu cá nhân mất tính tương quan, thì sẽ không có liên hệ với gia đình, tập thể, xã hội, môi sinh, cá nhân sẽ không có điều kiện để tồn tại.
Đấy là sự thật tự nhiên, theo nó thì còn, nghịch nó thì mất. Tính tương quan của quốc gia là tính hội nhập khu vực và thế giới, là sự ổn định của quan hệ đối ngoại. Mối quan hệ này dao động thì công cuộc phát triển cũng bị dao động theo; mối quan hệ này phát triển tốt thì công cuộc phát triển văn hóa, giáo dục, kinh tế, thương mại sẽ phát triển tốt. Đây là quy luật vừa tự nhiên, vừa xã hội cần được tôn trọng.

Tự do (Freedom/Liberté)
Tự do là hành xử theo ý muốn của cá nhân. Ở mặt xã hội, thì tự do cá nhân được giới hạn trong khuôn khổ luật pháp của quốc gia (do vì tôn trọng tự do của các cá nhân khác, và tôn trọng an ninh, chủ quyền của quốc gia). Ở mặt tâm lý, ý chí, thì tự do tâm lý, ý chí bị hạn chế bởi sự hạn chế tri thức của cá nhân, và bởi tâm lý tham lam, sân hận, và si mê. Tự do thực sự là ý nghĩa của giải thoát hoàn toàn khổ đau, chân hạnh phúc (vì thế mà thuật ngữ về Phật học, triết học chỉ sự giải thoát cao thượng bằng từ liberation - liberate - liberated) khi mà cá nhân có trí tuệ thấy rõ hiện tượng giới và có tâm lý không bị ràng buộc bởi tham lam , sân hận, và si mê. Vì thế, tự do cá nhân được đề cao là vì mục tiêu nhằm đến hạnh phúc, giải thoát khỏi mọi ràng buộc của tâm lý tiêu cực (dẫn đến hại mình, hại người, hại cả hai), mà không phải là đề cao chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ.
Với một quốc gia, tự do được xác định khi chủ quyền được bảo toàn. Chủ quyền ấy được thể hiện qua các mặt văn hóa, giáo dục, xã hội, kinh tế, thương mại, an ninh, và quốc phòng. Nếu lãnh vực kinh tế, thương mại chưa thể tự chủ, thì các lãnh vực khác của quốc gia đều bị dao động theo; bấy giờ vấn đề chủ quyền, hay tự do quốc gia, đang bị áp lực hạn chế. Điều này có nghĩa là tự do quốc gia chưa được thiết lập vững chắc. Tự do của quốc gia, cũng như sự có mặt của các hiện hữu, sự vật khác, được thiết lập phụ thuộc vào sự ổn định của sự phát huy tiềm lực quốc gia (yếu tố độc lập) và phụ thuộc vào một chiến lược đối ngoại thiện xảo (yếu tố tương quan) thể hiện được một sự quân bình, hòa điệu.
Hạnh phúc (Happiness/ Bonheur)
Hạnh phúc là mục tiêu của đời sống con người. Mọi người đều có khát vọng tìm cầu hạnh phúc. Con người sinh ra là để hạnh phúc, mà không phải để phiền muộn khổ đau. Là chủ thể của văn hóa, giáo dục, nên con người hẳn là xây dựng nền văn hóa, giáo dục vì khát vọng hạnh phúc. Nói khác đi, tiêu chuẩn của các giá trị phải là hạnh phúc, và linh hồn của văn hóa, giáo dục phải là tính chất nhân văn, dân chủ (bình an, tình người, hạnh phúc của cá nhân và tập thể).
Thế nên, từ ngữ hạnh phúc thiêng liêng gắn liền với quốc hiệu là một sự biểu hiện tính nhân văn, dân chủ cao cả nhất.
Về kinh nghiệm hạnh phúc ở đời, nhiều nhà tư tưởng, văn hóa lớn của nhân loại từng xem hạnh phúc là đạo đức, là lẽ thiện.
Tiêu biểu như quan điểm về hạnh phúc của Aristote (Aristotle), một đại triết gia Hy Lạp, thế kỷ thứ IV trước Tây lịch, mà Will Durant đã viết trong tác phẩm Câu chuyện Triết lý (The Story of Philosophy) của ông ta rằng:
“Aristote chấp nhận một cách thẳng thắn rằng mục đích trực tiếp của cuộc đời không phải là cái hay, cái đẹp, mà chính là hạnh phúc. Aristote nói rằng người ta tìm kiếm tiền tài, danh vọng, khoái lạc vì người ta tưởng rằng những thứ đó đem đến hạnh phúc. Tuy nhiên, cần phải biết hạnh phúc thật sự là gì và con đường nào đưa đến hạnh phúc. Aristote trả lời câu hỏi này bằng cách tìm những đặc điểm phân biệt loài người và những loài vật khác. Ông cho rằng hạnh phúc là sự phát triển hoàn toàn đầy đủ các đức tính của con người… Điều kiện của hạnh phúc do đó là sự phát triển khả năng suy luận. Đạo đức tùy thuộc vào sự suy luận chính xác, sự kiểm soát tinh thần, sự quân bình lòng ham muốn… Con đường đi đến mục đích đó là ý niệm trung dung”.
(Bản dịch: Trí Hải, Bửu Lịch, 1971, tr.91 - 92)
Với Phật giáo, Đức Phật dạy: “Ta chỉ nói khổ và con đường diệt khổ”. Điều này nói rõ giáo lý nhà Phật tập chú vào việc vượt thoát khổ đau, và đi vào hạnh phúc trong từng bước đi. Như thế, Phật giáo là một con đường, một nếp sống đạo đức rất nhân văn, rất thiết thực, và rất trí tuệ. Như thế, văn hóa Phật giáo là cốt lõi của nền văn hóa, giáo dục dân chủ nhân văn.
Hạnh phúc biểu hiện ở đời thì qua cảm xúc, cảm nhận và có điều kiện: đó là các cảm xúc, cảm nhận qua các quan năng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý tưởng (tư tưởng). Khi các quan năng tiếp xúc với các đối tượng sắc tướng, âm thanh, hương, vị, xúc chạm, và các ý niệm, ảnh tượng. Vì cảm nhận hạnh phúc là có điều kiện nên thường thay đổi, biến đổi, tan rã, và để lại đằng sau một cảm xúc mới với tần số rung động yếu hơn, khó chịu, và ngậm ngùi khổ đau. Do vậy, cảm nhận hạnh phúc thường kéo theo cảm nhận khổ đau khiến các cá nhân ngỡ rằng hạnh phúc vắng mặt.
Quả không có gì gây kinh ngạc các nhà nghiên cứu khi biết rằng tiếng nói nhân văn, dân chủ thâm trầm nhất đã phát tiết ra từ con tim và khối óc siêu việt bốc cháy khát vọng cứu dân, cứu nước của Hồ Chủ tịch và các nhà lãnh đạo kế thừa người. Đấy là sản phẩm trí tuệ của Việt Nam.
Hạnh phúc tuyệt đối là cảm nhận thoát khỏi điều kiện (cause, condition); nó có mặt trong trí tuệ giải phóng (trí tuệ cảm nhận). Nơi nào, lúc nào trí tuệ này có mặt, thì hạnh phúc có mặt. Nếu trí tuệ thường có mặt, thì toàn cõi hiện hữu là toàn cảnh giới hạnh phúc. Nó ở ngoài dục vọng, và ngoài các ý niệm hiện hữu.
Hạnh phúc tương đối thì tùy thuộc vào cảm xúc của chủ thể: mỗi người đón nhận theo cách thế và điều kiện riêng của mình nên rất khó có cơ sở để trao đổi, thảo luận. Thế nên, không ai, không một quốc gia nào thật sự có thẩm quyền đặt ra các tiêu chuẩn hạnh phúc, tiêu chuẩn nhân văn, hay tiêu chuẩn dân chủ (bởi hạnh phúc biểu hiện tính dân chủ, nhân văn rõ ràng và cao nhất).
Độc lập, Tự do, Hạnh phúc và Hiến pháp Việt Nam
Dưới cái nhìn khách quan và lắng đọng, nội hàm của độc lập, tự do, và hạnh phúc là nội hàm tỏa sáng nhất của các thể chế chính trị xưa nay có thể có.
Hiến pháp Việt Nam năm 1946, và các bản Hiến pháp bổ sung về sau: 1959, 1980, 1992, phản ánh trọn vẹn nội dung của ba từ thiêng liêng gắn liền với quốc hiệu như đề cập ở trên. Quả không có gì gây kinh ngạc các nhà nghiên cứu khi biết rằng tiếng nói nhân văn, dân chủ thâm trầm nhất đã phát tiết ra từ con tim và khối óc siêu việt bốc cháy khát vọng cứu dân, cứu nước của Hồ Chủ tịch và các nhà lãnh đạo kế thừa người. Đấy là sản phẩm trí tuệ của Việt Nam. Hẳn là có thể có các đồng điệu khác ở Á, Phi… về tiếng nói nhân văn và công chính nhất ấy, tiếng nói của một nhà văn hóa nhân loại của thời đại: Hồ Chủ tịch. Đây, phải chăng là đích điểm niềm tin của toàn dân và của các nhà lập pháp Việt Nam?
(Tháng 4-2007)