Xử lý nợ xấu và cho vay đặc biệt: Những khuyến nghị của Kiểm toán nhà nước
Sáng nay, 29/5, Quốc hội sẽ thảo luận tại hội trường về Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng (Dự thảo Luật). Trước đó, Dự thảo Luật đã thu hút sự quan tâm, góp ý của nhiều chuyên gia, Bộ, ngành, cơ quan, trong đó có Kiểm toán nhà nước (KTNN). Góp ý cho Dự thảo Luật, KTNN đã có những khuyến nghị đáng lưu ý về xử lý nợ xấu và cho vay đặc biệt.

Xử lý nợ xấu là một trong hai nhóm nội dung được NHNN sửa đổi, bổ sung trong Dự thảo Luật. Ảnh minh họa
Bổ sung, cụ thể hóa các quy định về xử lý nợ xấu
Xử lý nợ xấu là một trong hai nhóm nội dung được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sửa đổi, bổ sung trong Dự thảo Luật. Bên cạnh cơ sở chính trị, pháp lý, việc sửa đổi, bổ sung nhóm vấn đề này còn xuất phát từ thực tế nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) vẫn tiếp tục ở mức cao và có xu hướng gia tăng, gây áp lực đối với lĩnh vực ngân hàng. Theo báo cáo của NHNN, tính đến cuối năm 2024, tỷ lệ nợ xấu nội bảng chiếm khoảng 3,5%. Tuy nhiên, nếu tính cả các khoản nợ xấu tiềm ẩn và các khoản nợ đã chuyển nhượng cho Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam, tỷ lệ nợ xấu thực tế có thể dao động từ 5 - 6%.
Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD đã được Thống đốc NHNN thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội vào ngày 20/5. Dự kiến, ngày 29/5, Quốc hội thảo luận ở hội trường và ngày 17/6, Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua Dự án Luật này.
Trước yêu cầu từ thực tiễn, NHNN tiếp tục nghiên cứu, luật hóa các quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD (Nghị quyết 42) nhằm tạo lập khung khổ pháp lý đồng bộ, đảm bảo phù hợp với thực tiễn, xử lý các vướng mắc, khó khăn đã và đang cản trở TCTD, tổ chức mua bán nợ thực hiện các quyền hợp pháp trong quá trình xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm (TSBĐ) của khoản nợ xấu. Với mục đích đó, Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung 3 nhóm vấn đề: Quyền thu giữ TSBĐ; kê biên tài sản của người phải thi hành án đang được sử dụng làm TSBĐ cho khoản nợ xấu; hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự, là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính trong vụ việc vi phạm hành chính.
Để đảm bảo quyền thu giữ TSBĐ không bị vướng mắc trong thực tế, KTNN đề nghị Dự thảo Luật cần phải có những quy định cụ thể về các biện pháp mà các TCTD, tổ chức được ủy quyền thu giữ TSBĐ bị cấm thực hiện trong quá trình thu giữ xử lý TSBĐ, những biện pháp trái đạo đức xã hội. Đồng thời, cần nghiên cứu cụ thể, có lộ trình và đồng bộ với các luật khác để đảm bảo tính khả thi, đặc biệt đối với các TSBĐ là quyền sử dụng đất gắn liền với nhà ở - tài sản duy nhất bảo hộ cần thiết về an sinh và quyền về nơi ở theo các công bố, quy định, công ước quốc tế về quyền con người, quyền trẻ em, người già mà Việt Nam đã ký kết.
Qua kiểm toán lĩnh vực ngân hàng, KTNN từng chỉ ra sai sót về trình tự, thủ tục cho vay như: Định kỳ chưa đánh giá lại TSBĐ; thiếu chứng từ giải ngân/tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn; kiểm tra, giám sát sau cho vay chưa đầy đủ; một số ngân hàng phân loại nợ chưa phù hợp…
Bên cạnh đó, mục b khoản 4 Điều 198a Dự thảo Luật nên cân nhắc chỉnh sửa nội dung “Thông báo cho bên đảm bảo về việc thực hiện quyền thu giữ TSBĐ” thành “Thông báo cho bên đảm bảo, người đang giữ TSBĐ (nếu có) về thực hiện quyền thu giữ TSBĐ”. “Chỉnh sửa nội dung này nhằm đảm bảo việc gửi thông báo sẽ được thực hiện đầy đủ cho cả bên đảm bảo và người đang giữ TSBĐ nếu có” - KTNN nhấn mạnh.
Cũng theo KTNN, Ban soạn thảo cần nghiên cứu kế thừa đầy đủ nội dung tại Nghị quyết 42, trong đó nghiên cứu bổ sung quy định: “Niêm yết văn bản thông báo tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ theo hợp đồng bảo đảm và trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có TSBĐ” vào khoản 3 Điều 198a về công khai thông tin thu giữ TSĐB.
Ngoài ra, để TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ có quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu, KTNN đề nghị bổ sung vào cuối điểm d, khoản 2 Điều 198a điều kiện sau: “Không thuộc trường hợp bị Nhà nước thu hồi đất do vi phạm pháp luật theo quy định của Luật Đất đai”. Lý do một số dự án đầu tư có sử dụng đất thế chấp dự án (tài sản hình thành trong tương lai) đã vay vốn ngân hàng nhưng bị thu hồi lại đất mà không bồi thường về quyền sử dụng đất và giá trị đầu tư trên đất.
Cân nhắc cho vay đặc biệt với lãi suất 0%
Một nội dung khác được sửa đổi, bổ sung là cho vay đặc biệt của NHNN đối với các TCTD. Theo các chuyên gia, hiện nay, cách tiếp cận xây dựng pháp luật của Việt Nam đã thay đổi khi phân cấp, phân quyền, giao nhiệm vụ cho bộ máy bên dưới gắn với trách nhiệm. Thể hiện rõ tinh thần đổi mới này, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung thẩm quyền quyết định việc cho vay đặc biệt của NHNN theo hướng chuyển thẩm quyền quyết định từ Thủ tướng Chính phủ (đối với trường hợp khoản cho vay đặc biệt có lãi suất 0%/năm, khoản cho vay đặc biệt không có TSBĐ) thành NHNN.
Việc sửa đổi quy định về cho vay đặc biệt nhằm thực hiện yêu cầu của Chính phủ. Cụ thể, trong Công văn số 2923/VPCP-KTTH ngày 08/4/2025, Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc chỉ đạo NHNN khẩn trương nghiên cứu, đề xuất việc sửa đổi các nội dung quy định về thẩm quyền quyết định việc cho vay đặc biệt với lãi suất 0%/năm, không có TSBĐ theo hướng phân cấp, phân quyền, giao NHNN xem xét, quyết định.
Góp ý về nội dung này, KTNN cho rằng, việc điều chỉnh thẩm quyền quyết định khoản vay đặc biệt nhằm phân cấp, phân quyền triệt để cho NHNN. Tuy nhiên, KTNN đề nghị cơ quan soạn thảo nên xem xét, cân nhắc việc cho vay đặc biệt với lãi suất 0% vì cho vay đặc biệt có lãi suất sẽ tạo ra những áp lực cần thiết để TCTD trả nợ, tránh việc các TCTD có tâm lý trông chờ và lệ thuộc/phụ thuộc vào các nguồn lực của Nhà nước. “Việc áp dụng miễn giảm lãi suất về 0% đối với mọi khoản vay chỉ nên thực hiện khi cần thiết và phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, bối cảnh cụ thể, nguồn lực nhà nước, thực trạng, phương án tái cơ cấu của mỗi TCTD”- KTNN khuyến nghị.
Về quy định chuyển tiếp, theo KTNN, đối với các TCTD đã được NHNN cho vay đặc biệt có mức lãi suất >0%, để đảm bảo thu hồi tối đa các khoản cho vay đặc biệt, giảm thiệt hại cho Nhà nước, đề nghị nghiên cứu quy định khoanh lãi trong thời gian thực hiện phương án tái cơ cấu hoặc chuyển giao và tiếp tục thu hồi khi TCTD hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi sau thời điểm hoàn thành trả nợ vay đặc biệt./.