Xoa dịu nỗi đau da cam - Không để ai bị bỏ lại phía sau
Chiến tranh đã lùi vào quá khứ gần nửa thế kỷ, nhưng vết thương hóa học mà nó để lại vẫn còn nhức nhối trong cơ thể và cuộc sống của hàng vạn nạn nhân chất độc da cam/dioxin. Nỗi đau ấy không chỉ là thể xác bị hủy hoại, mà còn là những thiệt thòi kéo dài qua nhiều thế hệ.

Trung tướng Nguyễn Hữu Chính trao Bằng khen tặng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác tuyên truyền, vận động, giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam và khắc phục hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam (2020-2025). Ảnh: Nguyên Hải
Thấu hiểu những mất mát to lớn đó, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn dành sự quan tâm sâu sắc, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, với tinh thần trách nhiệm và tình cảm đồng bào, đồng chí, triển khai nhiều chủ trương, chính sách ưu tiên, chương trình hành động cụ thể, kịp thời. Những việc làm cụ thể, nghĩa tình ấy đã tiếp thêm nghị lực, niềm tin để những nạn nhân chất độc da cam/dioxin vượt qua bệnh tật, vươn lên ổn định cuộc sống, từng bước hòa nhập cộng đồng, tiếp tục khẳng định giá trị sống giữa đời thường.
Vết thương hóa học chưa lành
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ không chỉ gieo rắc đau thương bằng bom đạn, mà còn sử dụng các loại chất độc hóa học với mục tiêu hủy diệt môi trường sống, tàn phá tài nguyên, bóp nghẹt sinh kế của người dân và làm suy yếu ý chí chiến đấu của lực lượng cách mạng. Đó là một hình thức chiến tranh phi nhân tính, tàn bạo cả về quy mô, cường độ lẫn hậu quả để lại.
Trong vòng một thập niên (1961-1971), không quân Mỹ đã thực hiện tới 19.905 phi vụ phun rải hơn 80 triệu lít chất độc hóa học, trong đó có 61% là chất da cam chứa khoảng 366kg dioxin - loại chất cực độc có khả năng tồn lưu hàng chục năm trong môi trường. Chất độc này đã bao trùm gần 26.000 thôn, bản; gây ô nhiễm cho hơn 3 triệu ha đất đai, tương đương 1/4 diện tích toàn miền Nam nước ta. Nhiều khu vực bị phun rải lặp đi lặp lại nhiều lần, có nơi lên tới hơn 10 lượt, biến những cánh rừng xanh tươi thành “vùng đất chết”. Những cánh rừng từng là “lá phổi xanh” và “chiến khu bất khả xâm phạm” đã trở thành hoang mạc sinh học. Chất độc da cam đã phá vỡ cấu trúc tự nhiên của môi trường, làm sụp đổ cân bằng hệ sinh thái. Các cánh rừng ngập mặn - tuyến phòng thủ tự nhiên ven biển miền Nam bị hủy hoại nặng nề, kéo theo hệ lụy về sạt lở, xâm nhập mặn và mất đất canh tác. Môi trường bị tổn thương nghiêm trọng, đến nay vẫn chưa thể khôi phục hoàn toàn.
Không chỉ tàn phá môi trường, chất độc da cam còn gieo rắc nỗi đau thể xác và tinh thần cho hàng triệu con người. Thống kê cho thấy, khoảng 4,8 triệu người Việt Nam đã bị phơi nhiễm, trong đó có hơn 3 triệu nạn nhân - hàng trăm nghìn người đã qua đời, hàng trăm nghìn người khác đang từng ngày vật lộn với bệnh tật hiểm nghèo, dị tật bẩm sinh, mất đi khả năng lao động và sinh hoạt bình thường. Hàng ngàn gia đình có nhiều thế hệ nối tiếp nhau gánh chịu di chứng, một chuỗi bi kịch nhân sinh chưa từng có trong lịch sử chiến tranh hiện đại.
Các nghiên cứu y học trong và ngoài nước đã chỉ rõ: Dioxin là tác nhân gây tổn thương đa hệ cơ quan, từ gan, thận, da, tuyến nội tiết đến hệ thần kinh, hô hấp, sinh sản, thậm chí phá hủy cấu trúc gen và nhiễm sắc thể. Hậu quả là những dị dạng, dị tật nghiêm trọng: liệt tứ chi, mù lòa, thiểu năng trí tuệ, câm, điếc, tâm thần, ung thư, tai biến sản khoa... Đáng báo động, di chứng da cam có khả năng di truyền qua nhiều thế hệ. Tại Việt Nam, các bác sĩ đã ghi nhận nhiều trường hợp nạn nhân thuộc thế hệ thứ ba, thứ tư tiếp tục gánh chịu hậu quả khôn lường của chất độc hóa học mà cha ông họ từng hứng chịu trong chiến tranh.
Hành động vì nạn nhân chất độc da cam
Những năm qua, Đảng, Nhà nước cùng các bộ, ban, ngành đã không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến công tác khắc phục hậu quả chất độc hóa học sau chiến tranh. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật, chỉ thị, nghị quyết được ban hành kịp thời, tạo hành lang pháp lý vững chắc để tổ chức triển khai đồng bộ các nhiệm vụ từ xử lý môi trường ô nhiễm đến chăm sóc, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nạn nhân chất độc da cam. Đặc biệt, việc thực hiện chế độ, chính sách đối với người có công với cách mạng nói chung, người tham gia kháng chiến bị phơi nhiễm chất độc hóa học và thân nhân của họ nói riêng luôn được đặt ở vị trí ưu tiên trong hệ thống an sinh xã hội.
Tính đến nay, đã có gần 400.000 người từng tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và con đẻ của họ được thụ hưởng chế độ trợ cấp hằng tháng theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng. Đây là biểu hiện sinh động của đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, là cam kết chính trị, pháp lý và nhân văn sâu sắc của Đảng, Nhà nước đối với những người đã hy sinh, cống hiến vì độc lập, tự do của dân tộc.

Tiết mục nghệ thuật trong chương trình “Theo ánh bình minh”. Ảnh: Daidoanket.vn
Song song với việc thực hiện chính sách của Nhà nước, công tác vận động nguồn lực từ cộng đồng xã hội để chăm lo, hỗ trợ các nạn nhân chất độc da cam cũng được đẩy mạnh, mang lại hiệu quả thiết thực. Các cấp Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam đã chủ động, linh hoạt trong công tác tuyên truyền, kết nối, phối hợp với nhiều tổ chức, cá nhân, các nhà hảo tâm trong và ngoài nước, qua đó huy động được hàng nghìn tỷ đồng để tổ chức khám chữa bệnh, phục hồi chức năng, hỗ trợ sinh kế, tặng nhà Tình nghĩa, học bổng... cho nạn nhân và gia đình họ. Phong trào “Hành động vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam”, do Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam phát động, ngày càng lan tỏa mạnh mẽ, trở thành điểm sáng trong hoạt động nhân đạo xã hội. Phong trào không chỉ thu hút sự tham gia tích cực của các cơ quan, đơn vị, tổ chức chính trị - xã hội, mà còn nhận được sự đồng hành của bạn bè quốc tế, thể hiện tinh thần đoàn kết, sẻ chia, trách nhiệm nhân văn cao cả.
Tại chương trình giao lưu nghệ thuật “Theo ánh bình minh” do Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam phối hợp với Văn phòng Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo 701 và Trung tâm Phát thanh-Truyền hình Quân đội tổ chức tại Hà Nội, ngày 5/8, nhân kỷ niệm 64 năm thảm họa da cam Việt Nam (10/8/1961-10/8/2025) và Ngày vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam (10/8), Trung tướng Nguyễn Hữu Chính, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam cho biết: Từ năm 2024 đến hết 6 tháng đầu năm 2025, toàn hệ thống Hội đã vận động được hơn 773 tỷ 167 triệu đồng từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Nguồn lực này được sử dụng để hỗ trợ sinh kế, xây mới và sửa chữa nhà, phục hồi chức năng, tặng quà cho các nạn nhân vào dịp lễ, Tết... Nhiều tổ chức quốc tế và doanh nghiệp đã đồng hành cùng Hội, tiêu biểu như các đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội, Hạ viện và Quỹ Aquitara của Vương quốc Bỉ, bà Masaco (Nhật Bản) - Giám đốc Quỹ “Hạt giống hy vọng”, Công ty cổ phần Ao Vua...
Trước đó, đầu tháng 6 vừa qua, phát biểu tại chương trình phát động ủng hộ Quỹ Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam do Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam tổ chức, Trung tướng Nguyễn Hữu Chính nhấn mạnh, hiện vẫn còn hàng vạn nạn nhân chất độc da cam đang phải sống trong nghèo đói và bệnh tật triền miên. Phía sau những con người lặng lẽ ấy là biết bao người mẹ, người vợ tảo tần, ngày đêm âm thầm chăm sóc chồng con với nỗi đau quặn xé trong lòng. Vì thế, hơn bao giờ hết, sự chung tay, góp sức của toàn xã hội, từ các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước là nguồn động viên to lớn, thiết thực để xoa dịu nỗi đau da cam, tiếp thêm niềm tin và nghị lực cho các nạn nhân vươn lên trong cuộc sống.
Đáng chú ý, trong khuôn khổ chương trình, Quỹ Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam phối hợp cùng ứng dụng Thiện nguyện MBBank đã phát động Chiến dịch vận động ủng hộ Quỹ Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam với chủ đề “Sinh kế và hòa nhập”. Chiến dịch diễn ra từ ngày 10/6 đến ngày 30/9, nhằm huy động nguồn lực xã hội để xây mới, sửa chữa nhà ở và hỗ trợ sinh kế cho các gia đình nạn nhân có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Đây là hoạt động có ý nghĩa thiết thực, góp phần cụ thể hóa phương châm “Không để ai bị bỏ lại phía sau”, lan tỏa giá trị nhân đạo, tinh thần nhân văn sâu sắc trong cộng đồng, xã hội.