Xây dựng vùng nguyên liệu chuẩn cho nông sản
Kế hoạch đến năm 2030, Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NNMT) đặt mục tiêu mở rộng 5 vùng nguyên liệu trọng điểm lên hơn 1,8 triệu ha, với yêu cầu 100% diện tích có hợp đồng liên kết tiêu thụ. Trọng tâm là phát triển vùng nguyên liệu gắn với cây trồng chủ lực của từng vùng, tránh dàn trải theo địa giới hành chính, đồng thời đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng khắt khe của thị trường.

Việc xây dựng vùng nguyên liệu góp phần giảm chi phí vận chuyển nông sản. Ảnh: Chu Khôi
Thay đổi rõ nét
Nhằm xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ NNMT) triển khai Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giai đoạn 2022-2025. Mục tiêu đặt ra là xây dựng 5 vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn tại 11 tỉnh; mở rộng vùng nguyên liệu cà phê Tây Nguyên tại Đắk Nông và Kon Tum... Tổng kinh phí huy động thực hiện đạt 2.975 tỷ đồng, trong đó vốn đối ứng của doanh nghiệp (DN), hợp tác xã (HTX) và nông dân hơn 72%.
Sau 4 năm triển khai Đề án, ông Lê Đức Thịnh - Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NNMT) cho biết, Đề án đã tạo chuyển biến rõ nét trong việc hình thành và mở rộng quy mô vùng nguyên liệu tại 11 tỉnh tham gia. Tổng diện tích vùng nguyên liệu hiện đạt gần 169.800ha, tăng 20% so với trước khi triển khai; trong đó, khoảng 121.000ha đã có liên kết tiêu thụ với DN, chiếm hơn 71% tổng diện tích, tăng mạnh so với mức 17.000ha ban đầu.
Đáng chú ý, chi phí vận chuyển nông sản tại nhiều vùng giảm 20-30%, thời gian vận chuyển rút ngắn còn một nửa so với trước. Năng suất cây trồng tăng trung bình 10-15%, giá trị sản xuất trên mỗi ha tăng khoảng 20-25%. Thu nhập của nông dân tại các vùng dự án tăng đều 5-10% mỗi năm, phản ánh hiệu quả kinh tế trực tiếp của việc đầu tư đúng vào cây trồng chủ lực và hạ tầng phục vụ vùng nguyên liệu.
Một điểm thay đổi quan trọng nữa, là vai trò của HTX. Nhiều HTX đã trở thành trung tâm điều phối vùng nguyên liệu, quản lý chất lượng, tổ chức sơ chế và kết nối DN. Tỷ lệ nông sản tiêu thụ qua HTX tăng từ 35% lên trên 57%. Hơn 90 chuỗi liên kết sản xuất - chế biến - tiêu thụ được hình thành, trong đó nhiều chuỗi có hợp đồng bao tiêu dài hạn, giúp ổn định đầu ra và giảm rủi ro thị trường.
Mở rộng vùng nguyên liệu đạt chuẩn
Là một trong những địa phương triển khai thí điểm Đề án, ông Nguyễn Thành Công - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La cho biết, tỉnh đã triển khai khá tốt về vùng nguyên liệu cây ăn quả: mở rộng diện tích áp dụng các tiêu chuẩn sản xuất, chứng nhận vùng trồng xuất khẩu, liên kết HTX/DN; phát triển nhiều vùng nguyên liệu tập trung, việc cấp mã số vùng trồng, xây dựng HTX, ứng dụng mô hình sản xuất an toàn đáp ứng các tiêu chuẩn như VietGAP và tương đương được triển khai, mang lại hiệu quả nhất định như năng suất cao hơn, nhiều sản phẩm được thị trường chấp.
Sơn La cũng thu hút nhiều nhà máy chế biến nông sản quy mô lớn, giải quyết được một phần bài toán về tiêu thụ nông sản cho người dân, hình thành nhiều mối liên kết sản xuất giữa DN, HTX với người dân trong chuỗi giá trị sản xuất giúp người dân yên tâm sản xuất; giải quyết được lao động cho địa phương.
Từ kết quả đã đạt được, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La Nguyễn Thành Công kiến nghị, Bộ NNMT cần ưu tiên bố trí nguồn vốn từ các Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, chuyển đổi số nông nghiệp… để đầu tư hỗ trợ phát triển vùng cây ăn quả tập trung, gắn với chế biến ở Sơn La.
Ông Trần Thanh Hiệp - Phó Giám đốc Sở NNMT tỉnh An Giang cũng đánh giá, thộng qua thực hiện Đề án, tỉnh đã xây dựng được các vùng nguyên liệu về lúa gạo, cây ăn trái, liên kết theo mô hình cánh đồng lớn.
Bên cạnh đó, Đề án góp phần xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng liên kết vùng hỗ trợ HTX phát triển vùng nguyên liệu, tổ chức sản xuất và quản trị vùng nguyên liệu, phát triển khuyến nông cộng đồng.
Trước kết quả đạt được của giai đoạn thí điểm, Thứ trưởng Bộ NNMT Trần Thanh Nam gợi mở, thời gian tới, cần đẩy mạnh bảo hiểm cây trồng. Theo ông Nam, phát triển nông nghiệp xanh không chỉ quan tâm, đầu tư vào môi trường mà còn phải tăng chất lượng cuộc sống bằng an sinh xã hội, quan tâm đến đời sống của người dân ở các vùng nguyên liệu, vùng sản xuất.
Ông Nam cũng cho rằng, giai đoạn tới sẽ không triển khai "Đề án thí điểm", thay vào đó, Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cần phối hợp với các đơn vị của Bộ, các địa phương để xây dựng, mở rộng vùng nguyên liệu, đưa các cây, con chủ lực vào sản xuất, phục vụ xuất khẩu.



























