Vững bước vào kỷ nguyên mới

Năm 2025 là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, cột mốc đánh dấu 95 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, năm cuối bứt tốc về đích thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, đồng thời cũng là năm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Trải qua gần 95 năm, Đảng ta đã lãnh đạo Nhân dân giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, đủ thế và lực phát triển bứt phá, sẵn sàng tâm thế bước vào kỷ nguyên mới. Nhân dịp đầu Xuân mới, cùng lắng nghe những chia sẻ của các chuyên gia, nhà khoa học về tiềm năng, động lực đưa đất nước ta vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

PGS, TS. Lê Hải Bình, Ủy viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản (ảnh trên): Quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả trở thành tất yếu khách quan đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Tại Việt Nam, đây cũng là một nội dung quan trọng, cấp thiết đặt ra trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Để đạt mục tiêu này, Đại hội XIII của Đảng xác định rõ: “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả” là một trong những nội dung của khâu đột phá đầu tiên trong ba đột phá chiến lược đưa đất nước phát triển.

Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, xây dựng một nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả và linh hoạt không chỉ đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, mà còn là nền móng để hiện thực hóa khát vọng phát triển của Việt Nam.

Theo đó, cần tập trung một số giải pháp:

Một là, nâng cao nhận thức của mọi chủ thể trong xã hội về phát triển quốc gia, triệu người như một cùng chung niềm tự hào, tự tôn dân tộc, cùng chung khát vọng, mục tiêu chiến lược trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng trong tình hình mới. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bảo đảm tính chính trị, cách mạng, hiện đại, thích ứng linh hoạt với thời cuộc. Đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, giám sát hệ thống quản trị quốc gia và năng lực quản trị của Nhà nước.

Ba là, xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật kiến tạo phát triển. Cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế dân chủ, pháp quyền theo đúng quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Cần có đột phá về tư duy giải quyết bài toán thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”. Thể chế, chính sách, pháp luật là động lực, là nguồn lực kiến tạo cho sự phát triển, hạnh phúc của Nhân dân. Thiết lập và vận hành bộ máy trong hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối trung gian, phân định rõ thẩm quyền, loại bỏ sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, xắt khúc theo phương châm: Rõ việc, rõ người, rõ nhiệm vụ, rõ trách nhiệm. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền và phân định thẩm quyền giữa các cấp chính quyền với phương châm: Địa phương quyết - địa phương làm - địa phương chịu trách nhiệm.

Bốn là, nâng cao năng lực và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Đội ngũ cán bộ, công chức trong nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả phải thực sự là tầng lớp tinh hoa, ưu tú. Ngoài năng lực chuyên môn cao, đội ngũ cán bộ, công chức phải tuân thủ các chuẩn mực đạo đức, thể hiện trách nhiệm giải trình trước người dân và xã hội. Có chính sách tiền lương, tạo động lực làm việc để cán bộ, công chức yên tâm công tác, luôn toàn tâm, toàn ý cho lý tưởng, khát vọng “phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”.

Năm là, tăng cường ứng dụng công nghệ số trong quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả. Trước hết, cần phát triển và ứng dụng các nền tảng số dùng chung, bảo đảm kết nối liên thông giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị, từ Trung ương đến địa phương. Cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình ở mức độ cao, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi. Hướng sự phát triển vào khai thác trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn (big data) và các công nghệ tiên tiến, đồng thời bảo đảm an ninh mạng, an toàn dữ liệu quốc gia.

Sáu là, huy động sự tham gia của các chủ thể vào quản trị quốc gia. Đây là chìa khóa tối đa hóa sức mạnh tổng hợp của xã hội, thúc đẩy quản trị hiệu quả, bền vững. Xây dựng cơ chế pháp lý rõ ràng, tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức xã hội và đoàn thể tham gia đóng góp ý kiến vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách. Đồng thời, công khai, minh bạch thông tin, khuyến khích vai trò giám sát của xã hội.

PGS, TS. Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương (ảnh dưới): Các động lực cho phát triển kinh tế - xã hội trong kỷ nguyên mới

Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam bước vào kỷ nguyên phát triển mới. Đây là giai đoạn phát triển khác cả về chất và lượng. Bối cảnh phát triển mới với nhiều thuận lợi và khó khăn đan xen, phức tạp, khó lường trong khi khát vọng phát triển đất nước rất lớn. Để đạt được các mục tiêu đặt ra cần phải có những nỗ lực phi thường, phải vượt qua chính mình.

Để đất nước vươn mình, vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được các mục tiêu đặt ra và vững tin bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên tiên tiến, văn minh, hiện đại cần có những giải pháp mang tính đột phá, giải phóng sức sản xuất và khơi thông nguồn lực, nhất là tạo đột phá trong quản lý và sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế, trong đó tập trung một số mục tiêu động lực:

Một là, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là động lực xuyên suốt và bao trùm, thể hiện sự kết hợp hài hòa động lực về vật chất và động lực về tinh thần; giữa lợi ích quốc gia - dân tộc với lợi ích của từng người dân, trong đó lợi ích quốc gia - dân tộc là trên hết, trước hết.

Hai là, giá trị văn hóa, con người Việt Nam với khát vọng phát triển, lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, sự đoàn kết, thống nhất toàn dân tộc. Đây là động lực quan trọng nhất, là sự kết nối giữa mục tiêu, nguồn lực và động lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, văn hóa là nền tảng phát triển; con người có trí tuệ, năng lực, sáng tạo, có phẩm chất đạo đức, nhân cách, trung thực, nhân ái là trung tâm; đồng thời, là mục tiêu, vừa là nguồn lực nội sinh, vừa là động lực của sự phát triển. Phát triển vì con người, không để ai bị bỏ lại phía sau.

Ba là, phát triển mạnh khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Đây là động lực mang tính đột phá, là điều kiện tiên quyết để có thể phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh mới, là cuộc cách mạng về hoàn thiện quan hệ sản xuất, giải phóng và mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Phát huy tốt động lực này sẽ giúp cho nền kinh tế bắt nhịp được với xu thế phát triển chung của thế giới, tận dụng được những cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Bốn là, chuyển đổi số gắn với chuyển đổi xanh. Đây là động lực mới và mang tính cách mạng, là cuộc cách mạng về phát triển lực lượng sản xuất, qua đó thúc đẩy sự phát triển của quan hệ sản xuất mới, tiên tiến, phù hợp, kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo, dữ liệu trở thành nguồn tài nguyên, tư liệu sản xuất quan trọng. Là quá trình thay đổi tổng thể, toàn diện về cách sống, cách làm việc, được tiến hành đồng bộ, toàn diện, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số vào mọi hoạt động kinh tế - xã hội.

PGS, TS. Nguyễn Viết Thông, nguyên Tổng Thư ký Hội đồng Lý luận Trung ương (ảnh dưới): Yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo trong kỷ nguyên vươn mình

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam đòi hỏi Đảng phải đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền. Theo đó, cần tập trung tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trên 8 nội dung chủ yếu sau:

Một là, Đảng cầm quyền bằng pháp luật, đồng thời hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, Nhà nước thực sự của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Đảng lãnh đạo toàn diện đất nước và chịu trách nhiệm về mọi thành công, hạn chế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng ban hành và tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao chủ trương, đường lối của Đảng. Trong đó, đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành văn bản của Đảng đồng bộ, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, tính dự báo cao, sát thực tiễn, khả thi. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, bảo đảm đạt hiệu quả cao. Khắc phục bệnh hình thức trong học tập, quán triệt nghị quyết. Tổ chức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nghiên cứu, học tập quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng nghiêm túc, chất lượng, hiệu quả.

Xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và điều kiện cụ thể của cơ quan, đơn vị, địa phương. Nghiên cứu, thể chế thành luật và các văn bản dưới luật. Xây dựng các quy định, quy chế của Đảng, tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình tổ chức thực hiện. Đổi mới cách thức thông tin, báo cáo kết quả thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, của địa phương, đơn vị. Nâng cao chất lượng tham mưu văn bản của các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng, nhất là trong tham mưu chiến lược, hoạch định chủ trương, đường lối; hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng.

Ba là, tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân bảo đảm thiết thực, phù hợp với từng đối tượng. Chú trọng tiếp thu ý kiến góp ý, phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là những vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn.

Bốn là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức. Xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị Việt Nam đáp ứng những yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Năm là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về công tác cán bộ. Theo đó, chú trọng hoàn thiện quy định lựa chọn, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ của các cấp ủy, tổ chức đảng bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, đúng tiêu chuẩn, điều kiện quy định. Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ. Xây dựng cơ chế, chính sách thu hút, tuyển dụng nhân tài làm việc trong hệ thống chính trị; thể chế chủ trương của Đảng về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Khuyến khích cán bộ từ chức khi có khuyết điểm…

Sáu là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Đổi mới phương pháp, quy trình, nâng cao kỹ năng kiểm tra, giám sát, bảo đảm khách quan, dân chủ, khoa học, đồng bộ, thống nhất, thận trọng, chặt chẽ. Thực hiện tốt việc kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán. Tập trung xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp liêm chính, chuyên nghiệp.

Bảy là, tiếp tục đổi mới, phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Hoàn thiện quy định và đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Mọi đảng viên phải gương mẫu, nói đi đôi với làm, thực hiện nghiêm Điều lệ Đảng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao

Tám là, tiếp tục đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương; mở rộng hình thức họp trực tiếp kết hợp với trực tuyến.

Bảo Khánh

Nguồn Xây Dựng Đảng: http://www.xaydungdang.org.vn/ly-luan-thuc-tien/vung-buoc-vao-ky-nguyen-moi-22464
Zalo