Việt Nam tích cực đóng góp vào nỗ lực chung vì bình đẳng giới trên toàn cầu
Không chỉ quan tâm và đạt được nhiều thành tựu trong việc bảo đảm bình đẳng giới ở trong nước, Việt Nam còn chủ động, tích cực đóng góp vào nỗ lực chung vì sự nghiệp bình đẳng giới trên phạm vi toàn cầu.
Tư tưởng trọng nam, khinh nữ vẫn phổ biến
Trong 2 ngày 10 và 11-3, tại trụ sở Liên hợp quốc (LHQ) ở New York, Mỹ, đã diễn ra lễ khai mạc và phiên thảo luận chung của Khóa họp thứ 69 của Ủy ban Địa vị phụ nữ của Hội đồng kinh tế - xã hội LHQ với chủ đề chính là rà soát kết quả 30 năm thực hiện Tuyên bố và Cương lĩnh hành động Bắc Kinh 1995 về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ. Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh đã tham dự khóa họp và có bài phát biểu tại phần đầu tiên của phiên thảo luận dành cho các quốc gia thành viên LHQ.

Số sinh viên nữ trong các ngành STEM ở Việt Nam đang tăng lên
Trong phát biểu khai mạc khóa họp, Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres đã cảnh báo về sự phổ biến của tư tưởng trọng nam, khinh nữ, tình trạng bạo lực, phân biệt đối xử trên cơ sở giới cả trong xung đột vũ trang lẫn trên không gian mạng, sự bất bình đẳng về kinh tế, sự suy giảm của cam kết, tài trợ quốc tế và tài chính quốc gia dành cho bình đẳng giới. Ông Guterres khẳng định bình đẳng giới là quyền con người, đồng thời kêu gọi tăng cường đầu tư cho phụ nữ và trẻ em gái.
Nhằm cam kết thực hiện các mối quan tâm và quyền lợi của phụ nữ toàn thế giới, tháng 9-1995, Hội nghị thế giới về phụ nữ lần thứ tư đã thông qua Tuyên bố và Cương lĩnh hành động Bắc Kinh. Đây là văn bản quan trọng về bình đẳng giới và quyền của phụ nữ, đặt ra 12 lĩnh vực trọng tâm cần cải thiện để đạt được sự bình đẳng, từ xóa bỏ nghèo đói, nâng cao quyền giáo dục đến chống bạo lực và cải thiện quyền cho phụ nữ.
Năm 2025 đánh dấu 30 năm thực hiện Tuyên bố và Cương lĩnh hành động Bắc Kinh. Nhiều tiến bộ đã được ghi nhận như sự bình đẳng đạt được trong giáo dục trẻ em gái và tỷ lệ tử vong ở bà mẹ đã giảm 1/3. Tỷ lệ đại diện của phụ nữ trong các quốc hội tăng gấp đôi và các quốc gia tiếp tục xóa bỏ các luật phân biệt đối xử, với 1.531 cải cách pháp lý từ năm 1995 đến năm 2024 tại 189 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Mặc dù vậy, quyền của phụ nữ và trẻ em gái vẫn đang phải đối mặt với những mối đe dọa như mức độ phân biệt đối xử cao hơn, sự bảo vệ pháp lý yếu hơn và ít tài trợ hơn cho các chương trình và tổ chức hỗ trợ và bảo vệ phụ nữ. Trong thập kỷ qua, thế giới đã ghi nhận mức tăng đáng lo ngại khi ngày càng có nhiều phụ nữ sống trong xung đột và khủng hoảng. Năm 2023, đã xảy ra hơn 170 cuộc xung đột vũ trang, trong khi 612 triệu phụ nữ và trẻ em gái sống trong phạm vi 50 km từ những cuộc xung đột này, gấp đôi con số vào những năm 1990.
Các con số thống kê còn cho thấy gần 10% phụ nữ và trẻ em gái trên thế giới vẫn mắc kẹt trong cảnh nghèo đói cùng cực với rất ít lựa chọn để thoát ra. Trong kịch bản khí hậu xấu nhất, thêm 158,3 triệu phụ nữ và trẻ em gái có thể bị đẩy vào cảnh nghèo đói vào năm 2050. Những cải thiện từng đầy hứa hẹn trong việc giảm tỷ lệ tử vong ở bà mẹ đã dừng lại, chủ yếu ở các quốc gia và cộng đồng nghèo nhất và mong manh nhất. Hiện cứ 10 phút lại có một phụ nữ hoặc trẻ em gái bị bạn đời hoặc thành viên trong gia đình sát hại.
Phát biểu tại khóa họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh đã chỉ ra những khó khăn, thách thức như tình trạng phụ nữ và trẻ em gái vẫn phải sống trong xung đột, đói nghèo, dịch bệnh, bất bình đẳng và đối mặt với nguy cơ bị tụt hậu trong kỷ nguyên số. Đặc biệt, theo một số dự báo, có thể cần đến 137 năm nữa mới có thể chấm dứt tình trạng nghèo cùng cực ở phụ nữ và sự cân bằng giới tại quốc hội của các nước sẽ không thể đạt được trước năm 2063.
Việt Nam đề xuất 3 lĩnh vực ưu tiên trong công tác bình đẳng giới
Trong 30 năm kể từ khi Cương lĩnh hành động Bắc Kinh được thông qua, Việt Nam đã triển khai hàng loạt chính sách và chương trình hành động để hiện thực hóa các mục tiêu của Cương lĩnh. Việt Nam là một trong những quốc gia tiên phong trong việc lồng ghép bình đẳng giới vào hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý vững chắc nhằm bảo vệ quyền lợi của phụ nữ. Nhiều đạo luật quan trọng đã được ban hành và sửa đổi để phù hợp với xu hướng tiến bộ toàn cầu như: Luật Bình đẳng giới (năm 2006); Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (2007, sửa đổi 2022); Bộ luật Lao động (sửa đổi 2019); Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới (giai đoạn 2011 - 2020; 2021 - 2030); Chương trình hành động quốc gia về phụ nữ, hòa bình và an ninh giai đoạn 2024-2030…
Những nỗ lực này đã giúp Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần khẳng định vị thế của phụ nữ trên bản đồ bình đẳng giới quốc tế. Trong lĩnh vực kinh tế, phụ nữ Việt Nam không chỉ tham gia mạnh mẽ vào lực lượng lao động mà còn có những đóng góp đáng kể trong phát triển kinh tế. Phụ nữ chiếm 46,8% lực lượng lao động của cả nước. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nữ đạt 63% (năm 2024), thuộc nhóm trên của thế giới. Tại Việt Nam, phụ nữ sở hữu 26,5% tổng số doanh nghiệp (năm 2020). Đây là tỉ lệ tương đối cao so với các nước trong khu vực.
Kết quả nghiên cứu về bình đẳng giới trong giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ do Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam công bố tháng 2-2025 cho thấy, sinh viên nữ chiếm khoảng 54,2% tổng số sinh viên vào năm 2021-2022. Hệ thống chăm sóc sức khỏe dành cho phụ nữ cũng được cải thiện đáng kể. Tỷ suất tử vong mẹ đã giảm 6 lần trong 30 năm qua, từ mức 233/100.000 trẻ đẻ sống năm 1990 xuống còn khoảng 40/100.000 trẻ đẻ sống những năm gần đây.
Hiện nay, phụ nữ Việt Nam chiếm gần 1/3 số đại biểu quốc hội, gần 40% lực lượng trong các ngành liên quan đến khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán học (STEM), sở hữu 26,5% tổng số doanh nghiệp và chiếm 68,5% lực lượng lao động, cao hơn mức trung bình của thế giới là 48,7%. Cả nước hiện đang triển khai mạnh mẽ phổ cập tri thức số, trong đó có cho phụ nữ và trẻ em gái. Nữ chiếm 14,4% lực lượng Việt Nam tham gia gìn giữ hòa bình, cao hơn mức trung bình của LHQ là 10,2%. Kể từ khi thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững của LHQ, xếp hạng thế giới của Việt Nam về bình đẳng giới tăng từ vị trí 83 lên 72 trong số 146 quốc gia.
Phát biểu tại Khóa họp thứ 69 của Ủy ban Địa vị phụ nữ của Hội đồng kinh tế - xã hội LHQ, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh đã đề xuất 3 lĩnh vực ưu tiên trong công tác bình đẳng giới. Thứ nhất là hoàn thiện khung thể chế, pháp luật và chính sách để thúc đẩy sự tham gia bình đẳng của phụ nữ, đặc biệt là trong quá trình ra quyết định ở mọi lĩnh vực.
Hai là tăng quyền năng kinh tế của phụ nữ thông qua đẩy mạnh hợp tác công-tư để huy động hiệu quả mọi nguồn lực xã hội hỗ trợ phụ nữ tiếp cận tài chính, thị trường, tham gia sáng tạo, khởi nghiệp và phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, và tham gia thị trường lao động một cách bình đẳng, kể cả thông qua việc ghi nhận, giảm thiểu, phân bổ lại việc nhà và công việc chăm sóc không trả công, đi đôi với phát triển nền kinh tế chăm sóc.
Ba là tăng cường sự tham gia, đóng góp và đi đầu của phụ nữ trong các lĩnh vực liên quan đến STEM, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, nghiên cứu xây dựng các mô hình hệ sinh thái STEM, trong đó phụ nữ và trẻ em gái được khuyến khích, hỗ trợ, định hướng học tập, đào tạo và phát triển sự nghiệp trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, năng lượng tái tạo, kinh tế số...