Việt Nam luôn đề cao, nghiêm túc thực thi Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển
Là thành viên tích cực của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, Việt Nam luôn đề cao tôn chỉ, mục tiêu và các nguyên tắc của công ước, nghiêm túc tuân thủ và thực thi UNCLOS.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về biển trên cơ sở UNCLOS
Nhận thức rõ vị trí là một quốc gia ven biển có bờ biển dài trên 3.260 km, với 4.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời có đến 28/63 tỉnh, thành phố giáp biển, có nhiều lợi ích gắn liền với biển, Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình thương lượng xây dựng UNCLOS và có nhiều nỗ lực trong việc thực thi Công ước, cũng như chủ động hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước về biển.
Ngay sau khi thống nhất đất nước năm 1975, chỉ 2 năm sau, Việt Nam đã cử đoàn cán bộ tham dự các hội nghị của Liên hợp quốc về Luật Biển và tiếp thu những tinh thần của dự thảo văn kiện của UNCLOS. Điều nay đã góp phần để Việt Nam trở thành quốc gia Đông Nam Á đầu tiên ra Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, ngày 12-5-1977.
Tại Hội nghị lần thứ 3 của Liên hợp quốc về Luật Biển tại Montego Bay (Jamaica), Việt Nam là một trong 107 quốc gia tham gia ký UNCLOS (ngày 30-4-1982). Trước khi Công ước có hiệu lực, ngày 23-6-1994, Quốc hội Việt Nam đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn văn kiện pháp lý quan trọng này. Điểm 1 trong Nghị quyết nêu rõ: “Bằng việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển”.
Tiếp đó, trên cơ sở phù hợp với Công ước, Việt Nam đã từng bước xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp quy nhằm tạo lập môi trường pháp lý cho công tác quản lý, sử dụng biển và các hoạt động phát triển bền vững, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thúc đẩy hợp tác quốc tế trên biển trên cơ sở quy định của Công ước.
Ngày 21-6-2012, Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Biển Việt Nam, chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1-1-2013. Đạo luật tổng thể của quốc gia về biển này quy định đầy đủ chế độ pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, các quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển tại các vùng biển được xác định đúng theo quy định của UNCLOS. Đây là một dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung, cũng như trong quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến biển đảo nói riêng, tạo cơ sở để Việt Nam “tiến ra biển, trở thành quốc gia mạnh từ biển”.
Việt Nam cũng đã nghiên cứu, soạn thảo và ban hành nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành về các lĩnh vực biển khác nhau nhằm cụ thể hóa các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan. Tính tổng thể, chúng ta đã có tới có hơn 500 văn bản pháp quy ở trung ương và địa phương liên quan đến quản lý nhà nước về biển đảo. Các luật, bộ luật và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về biển là cơ sở pháp lý quan trọng để Việt Nam thực hiện, bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của mình theo UNCLOS, triển khai hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng biển một cách phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế.
Tích cực đóng góp vào việc thực hiện đầy đủ UNCLOS
Là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế nói chung và của UNCLOS nói riêng, Việt Nam luôn đề cao tôn chỉ và mục tiêu của UNCLOS, đồng thời có nhiều nỗ lực trong việc thực thi Công ước. Năm 2018, “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã được ban hành. Chiến lược xác định rõ Việt Nam sẽ tham gia chủ động, có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế, khu vực về biển và đại dương. Thực hiện tinh thần này, năm 2021, Việt Nam đã cùng 11 nước sáng lập Nhóm bạn bè của UNCLOS năm 1982 nhằm tạo ra một diễn đàn cởi mở, thân thiện để các nước cùng trao đổi các vấn đề về biển và đại dương, qua đó đóng góp chung vào việc thực hiện đầy đủ UNCLOS.
Hiện nay, Việt Nam đang và sẽ tiếp tục chủ động, tích cực tham gia các diễn đàn đa phương, thảo luận về các vấn đề mới nổi lên của biển và đại dương như bảo tồn đa dạng sinh học tại vùng nằm ngoài quyền tài phán quốc gia, ứng phó với các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu với biển và đại dương, quản trị các hoạt động trên biển trong điều kiện có các thách thức an ninh phi truyền thống mới, như đại dịch Covid-19, nạn buôn bán người, di cư trái phép...
Thực hiện nghĩa vụ quy định tại UNCLOS năm 1982, năm 2009, Việt Nam đã đệ trình ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng khu vực phía Bắc lên Ủy ban ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc (CLCS). Bên cạnh đó, Việt Nam cũng hợp tác cùng Malaysia đệ trình lên CLCS ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng chung tại phía Nam Biển Đông, nơi hai nước có thềm lục địa chồng lấn, chưa phân định.
Với tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS năm 1982, Việt Nam đã phân định các vùng biển chồng lấn thành công với nhiều nước láng giềng. Song song với phân định biển, Việt Nam và Trung Quốc cũng đạt được thỏa thuận về hợp tác nghề cá tại Vịnh Bắc bộ, qua đó xác lập khu vực hợp tác đánh bắt cá chung và tuần tra chung để ngăn ngừa tội phạm và các hành vi vi phạm trên biển.
Cho tới nay, các hiệp định phân định biển giữa Việt Nam và các nước láng giềng được thực hiện đúng nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS năm 1982, góp phần thúc đẩy quan hệ hòa bình, ổn định và phát triển giữa Việt Nam và các quốc gia láng giềng. Bên cạnh phân định biển, Việt Nam cũng đã đạt được thỏa thuận với Campuchia về vùng nước lịch sử tại khu vực biển chưa phân định giữa hai nước. Đồng thời, cùng với Malaysia, thiết lập khu vực khai thác dầu khí chung tại khu vực thềm lục địa chồng lấn chưa được phân định giữa hai nước.
Tại các khu vực biển còn chồng lấn, chưa được phân định, với các nước láng giềng, Việt Nam luôn tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, trong khi thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản và lâu dài. Việt Nam ủng hộ việc duy trì ổn định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
Trong bối cảnh thời gian qua, tình hình Biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp, vi phạm nghiêm trọng các quyền của Việt Nam và các nước trong khu vực được quy định tại UNCLOS, Việt Nam kiên trì quan điểm tôn trọng và tuân thủ đầy đủ Công ước, tôn trọng các tiến trình ngoại giao và pháp lý, không có những hành động diễn giải sai trái hay cố tình hạ thấp ý nghĩa, vai trò của Công ước. Việt Nam khẳng định bất cứ yêu sách nào về biển cũng phải được xây dựng trên cơ sở và trong phạm vi cho phép của UNCLOS. Khi có bất đồng hoặc khác biệt liên quan đến giải thích và áp dụng Công ước, các bên liên quan cần giải quyết thông qua thương lượng hoặc các biện pháp hòa bình khác, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS.