Việt Nam đang dần hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường 'carbon rừng'
Chính phủ chuẩn bị ban hành một nghị định quy định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng, trong đó có chuyển nhượng tín chỉ carbon rừng. Hiện dự thảo nghị định đang được lấy ý kiến, được kỳ vọng khi ban hành sẽ tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho hoạt động giao dịch, chi trả và quản lý tín chỉ carbon rừng...

Việt Nam đã chuyển nhượng thành công hơn 10 triệu tấn CO₂ và trở thành quốc gia đầu tiên trong số 15 nước ký thỏa thuận ERPA bàn giao 100% tín chỉ ngay trong kỳ đầu tiên.
Nghị định số 107/2022/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28/12/2022 về thí điểm chuyển nhượng kết quả giảm phát thải và quản lý tài chính thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ, được triển khai từ ngày ký ban hành và thí điểm đến hết ngày 31/12/2026.
THỎA THUẬN ERPA TẠO TIỀN ĐỀ THUẬN LỢI
Hoạt động giao dịch, chi trả và quản lý tín chỉ carbon rừng là một trong những thành tố quan trọng của thị trường carbon Việt Nam. Tính từ ngày Nghị định 107 có hiệu lực, đến nay Việt Nam đã chuyển nhượng thành công hơn 10 triệu tấn carbonic, hay dioxyd carbon (CO₂) cho Quỹ Đối tác Carbon lâm nghiệp của Ngân hàng Thế giới (WB) với mức giá 5 USD/tấn, tương đương trên 50 triệu USD và trở thành quốc gia đầu tiên trong số 15 nước ký thỏa thuận ERPA bàn giao 100% tín chỉ ngay trong kỳ đầu tiên.
ERPA là Thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ, được ký ngày 22/10/2020 giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) và Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế (IBRD); Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế chuyển giao lại cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khoảng 95% lượng giảm phát thải ký kết và lượng bổ sung (nếu có) để sử dụng cho Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam.
Đến cuối năm 2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 107/2022/NĐ-CP về thí điểm chuyển nhượng kết quả giảm phát thải và quản lý ERPA.
Các chuyên gia cho rằng việc đẩy mạnh kinh doanh tín chỉ carbon rừng là yếu tố thúc đẩy có ý nghĩa đối với việc giảm nhẹ biến đổi khí hậu nói chung, quản lý rừng bền vững nói riêng. Theo đó, lợi ích tài chính tiềm năng từ carbon rừng cần được tái đầu tư vào quản lý và bảo vệ rừng; đồng thời xem xét chia sẻ lợi ích công bằng nhằm đạt được các mục tiêu trong lĩnh vực lâm nghiệp.
Theo nội dung dự thảo, tín chỉ carbon rừng là lượng khí CO₂ được hấp thụ thông qua các hoạt động lâm nghiệp bền vững, được đo đạc, xác minh và cấp chứng chỉ bởi cơ quan có thẩm quyền trong nước hay quốc tế, và có thể được giao dịch trên thị trường trong nước hoặc quốc tế.
Tuy nhiên, dự thảo nghị định cũng cho biết việc thí điểm cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Trong đó bao gồm việc thiếu cơ chế định giá; chưa rõ chủ thể đại diện cho tài sản carbon rừng, trong khi rừng hiện nay đại đa số thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý và giao cho các địa phương, các chủ rừng; thiếu một sàn giao dịch trong nước…
TẠO KHUNG PHÁP LÝ HOÀN CHỈNH
Thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết cả nước hiện có hơn 14,87 triệu ha rừng gồm trên 10 triệu ha rừng tự nhiên, còn lại là rừng trồng với tỷ lệ che phủ rừng đạt khoảng 42%.
Việc ban hành nghị định quy định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon rừng dựa trên nguyên tắc ung ứng và sử dụng dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng bảo đảm công khai, có trách nhiệm, hài hòa lợi ích giữa nhà nước, chủ rừng và các bên liên quan. Trong đó quy định về nguyên tắc, điều kiện, đối tượng, hình thức, mức chi trả; xác định lượng kết quả giảm phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon rừng được cung ứng; quản lý sử dụng tiền dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng. Đối tượng áp dụng là cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư có liên quan như chủ rừng, nhà đầu tư về rừng…
Các bên tham gia thị trường carbon cũng được dự thảo nghị định xác lập đầy đủ. Cụ thể, bên cung ứng dịch vụ gồm các chủ rừng; ủy ban nhân dân cấp xã và các tổ chức khác được giao trách nhiệm quản lý rừng theo quy định của pháp luật; các tổ chức, cá nhân nước ngoài phù hợp với quy định (tại Nghị định số 06/2022/NĐ-CP và Nghị định 119/2025/NĐ-CP) của pháp luật Việt Nam; các tổ chức, cá nhân trong nước không thuộc quy định có nhu cầu sử dụng kết quả giảm phát thải, tín chỉ carbon rừng để giảm phát thải (bù trừ) khí nhà kính tự nguyện.

Rừng Sác - Rừng ngập mặn Cần Giờ (TP.HCM) được mệnh danh "lá phổi xanh" của TP.HCM, có tiềm năng lớn trong việc tạo ra và giao dịch tín chỉ carbon, đặc biệt là loại "blue carbon" (carbon xanh lam).
Giao dịch được thực hiện theo hai hình thức là hợp đồng song phương giữa các bên liên quan, hay qua sàn giao dịch carbon trong nước. Giao dịch chỉ được trao đổi, chuyển nhượng lượng kết quả giảm phát thải, tín chỉ carbon rừng sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định lượng kết quả giảm phát thải hoặc tín chỉ carbon rừng được cung ứng theo quy định pháp luật.
Hình thức chi trả gồm trực tiếp và gián tiếp. Trong đó, chi trả trực tiếp là bên sử dụng dịch vụ trả tiền trực tiếp cho bên cung ứng dịch vụ theo hợp đồng hoặc theo cơ chế vận hành sàn giao dịch carbon trong nước; chỉ trả gián tiếp là bên sử dụng dịch vụ trả tiền cho bên cung ứng dịch vụ ủy thác qua Quỹ bảo vệ và phát triển rừng theo hợp đồng giữa đại diện bên cung ứng là cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Dự thảo nghị định cũng quy định mức chi trả. Mức chi trả là giá trao đổi, chuyển nhượng 1 tấn CO2 hoặc 1 tín chỉ carbon rừng, được tính bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ khác.
Việc xác định giá trao đổi, chuyển nhượng dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng đối với rừng thuộc sở hữu toàn dân được quy định như sau:
Thứ nhất, Bộ Nông nghiệp và Môi trường quy định phương pháp định giá dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng.
Thứ hai, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành bảng giá dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng đối với rừng do địa phương quản lý trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Môi trường.
Thứ ba, giá dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng làm căn cứ xác định giá khởi điểm trên sàn giao dịch carbon trong nước hoặc để thực hiện đấu giá trước khi ký hợp đồng theo quy định của pháp luật.
Đối với trao đổi, chuyển nhượng kết quả giảm phát thải, tín chỉ carbon rừng thuộc phạm vi 2 tỉnh/thành phố trở lên, giá khởi điểm là giá cao nhất từ các bảng giá do ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố ban hành. Trường hợp chưa có quy định phương pháp định giá và bảng giá, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đàm phán, báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định mức giá cụ thể.
HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH KHÍ HẬU
Việt Nam có diện tích rừng lớn với tỷ lệ che phủ cao, vì vậy có lợi thế trong việc cung cấp tín chỉ từ hấp thụ và lưu giữ carbon rừng. Và như đã nói, hoạt động giao dịch, chi trả và quản lý tín chỉ carbon rừng là một trong những thành tố quan trọng của thị trường carbon Việt Nam được xác định là một cơ chế huy động tài chính khí hậu hiệu quả.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, với tiềm năng lớn về carbon rừng, nhiều địa phương và khu vực tư nhân cũng đang nghiên cứu, đề xuất các dự án thí điểm khác trong lĩnh vực lâm nghiệp.
Hiện Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng Thỏa thuận mua bán giảm phát thải vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ gồm các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận để triển khai Ý định thư với Liên minh Giảm phát thải thông qua tăng cường tài chính lâm nghiệp (LEAF).
Ngành lâm nghiệp cũng đang có kế hoạch triển khai nhiều dự án thương mại tín chỉ carbon rừng. Tuy nhiên, để có thể chuyển lợi thế thành lợi nhuận hay phúc lợi thì cần khắc phục nhiều thách thức kỹ thuật và thể chế.
Thực tế thị trường carbon Việt Nam vẫn chưa hình thành; việc rà soát, kiểm kê, giám sát hấp thụ CO₂ còn hạn chế; kinh phí thực hiện dự án đánh giá carbon lớn, trong khi chưa có cơ chế hỗ trợ tài chính cụ thể; quy trình kiểm toán độc lập và xác thực tín chỉ carbon chưa được thiết lập rõ ràng…
Trong bối cảnh Việt Nam cam kết tại hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26) đạt phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050, dự thảo nghị định lần này khi được ban hành kỳ vọng sẽ tạo nền tảng cho thị trường carbon rừng vận hành ổn định, minh bạch, thúc đẩy mở rộng hợp tác quốc tế.
Đây cũng là cơ hội thực sự cho ngành lâm nghiệp cả nước nói chung, các chủ rừng, tổ chức và cá nhân trồng và khai thác rừng nói riêng, trong việc tự chủ nguồn lực, kinh phí, nguồn thu thay vì lệ thuộc vào ngân sách chi trả, hỗ trợ.