Việt Nam cần tuyển chọn Tổng công trình sư như thế nào?
Tổng công trình sư, Kiến trúc sư trưởng là người thiết kế các chính sách chiến lược trọng yếu của một quốc gia. Để thu hút họ, ngoài chính sách đãi ngộ, chúng ta phải tạo môi trường làm việc phù hợp.
Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số đang là động lực mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần thay đổi cách mỗi người sống và làm việc. Mới đây, Tổng Bí thư Tô Lâm đã yêu cầu mỗi hệ thống chiến lược trọng yếu phải có một Tổng công trình sư để kết hợp giữa lãnh đạo chuyên môn và quản lý chương trình.
Bộ Nội vụ cũng đang xây dựng chính sách tuyển chọn, sử dụng Tổng công trình sư, Kiến trúc sư (KTS) trưởng về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia với nhiều ưu đãi vượt trội để thu hút ít nhất 100 chuyên gia hàng đầu về nước làm việc.
Trao đổi với báo Pháp Luật TP.HCM, GS Nguyễn Đức Khương, Chủ tịch Tổ chức Khoa học và chuyên gia Việt Nam (VN) toàn cầu (AVSE Global), đánh giá Tổng công trình sư hay KTS trưởng là vấn đề mới ở VN. Do đó, để tuyển dụng được người phù hợp thì cần mở rộng phạm vi tìm kiếm ra cả nước ngoài.

Tổng Bí thư Tô Lâm cùng các đại biểu tại Hội nghị gặp mặt đại biểu trí thức, nhà khoa học toàn quốc hồi tháng 12-2024. Ảnh: VGP
Đóng vai trò kết nối
. Phóng viên: Thưa ông, Tổng Bí thư Tô Lâm đã yêu cầu và Chính phủ đang trình dự thảo nghị định về việc tuyển chọn, sử dụng Tổng công trình sư, KTS trưởng về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia với nhiều đột phá. Ông nghĩ sao về điều này?
+ GS Nguyễn Đức Khương: Đầu tiên phải khẳng định đây là chủ trương đúng đắn và rất quan trọng. Bởi trong bối cảnh hiện nay, với môi trường phát triển mới, chúng ta đang đối mặt với nhiều thách thức mới cả từ bên trong lẫn bên ngoài, do đó phải cấu trúc lại các hệ thống hỗ trợ cho sự phát triển của đất nước.
Đặc biệt, phải lựa chọn lại hệ thống ngành nghề ưu tiên, mang lại vị thế mới cho VN trong chuỗi giá trị toàn cầu, tạo nền tảng để xây dựng năng lực cạnh tranh trong trung và dài hạn.
Tổng công trình sư hay KTS trưởng là những người có hiểu biết sâu về lĩnh vực chuyên môn, có tầm nhìn về sự phát triển của ngành nghề trong tương lai. Chẳng hạn như các ngành khoa học trí tuệ nhân tạo, khoa học máy tính, ngành công nghiệp hàng không vũ trụ… Đây cũng là những ngành sẽ phục vụ sự phát triển của VN trong tương lai.
Họ cũng là người có tầm nhìn, kỹ năng, kiến thức cùng khả năng kết nối các chủ thể trong một lĩnh vực ngành nghề, giúp tái cấu trúc, tái định hình lại những cơ quan, bộ máy hay nguồn lực cần thiết mà chúng ta cần xây dựng.
Tuy nhiên, để hiện thực hóa được mục tiêu này, chúng ta cũng phải đương đầu với không ít khó khăn. Trong đó, VN chưa có hệ thống văn bản, pháp luật hay quy định về tiêu chí lựa chọn Tổng công trình sư, KTS trưởng; cũng chưa có quy định về đánh giá, tuyển dụng… với các vị trí này.
Hiện nay trên thế giới cũng có một số mô hình tương tự và VN có thể tham khảo, học hỏi kinh nghiệm. Có nước chọn theo mô hình KTS trưởng đóng vai trò tham mưu chính sách cho cả một ngành; có quyền tham gia xây dựng chính sách, cơ chế phát triển của lĩnh vực đó. Cũng có quốc gia chọn mô hình nhà khoa học trưởng với vai trò tham mưu về cơ chế, chính sách, về lĩnh vực và ngành nghề cần được ưu tiên trong thúc đẩy tăng trưởng.

GS Nguyễn Đức Khương, Chủ tịch Tổ chức Khoa học và chuyên gia Việt Nam (VN) toàn cầu (AVSE Global). Ảnh: NVCC
. Như ông vừa nói thì VN cần làm gì để vượt qua những thách thức đó?
+ Thách thức là có nhưng không phải không vượt qua được, quan trọng là xác định được tiêu chí để lựa chọn con người phù hợp. Trung ương cũng đang đưa ra tiêu chí rất mở.
Theo đó, Tổng công trình sư, KTS trưởng không chỉ là nhân tài trong nước mà có thể mở rộng tìm kiếm cả từ nước ngoài, miễn là họ phù hợp với yêu cầu công việc được giao. Trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, họ sẽ là người đóng vai trò quan trọng trong kết nối giữa các chủ thể, các cơ quan, bộ, ngành liên quan…
Điều VN cần làm lúc này là tận dụng các công nghệ hiện đại của nước ngoài, chuyển giao công nghệ tiên tiến và về lâu dài là làm chủ được công nghệ cũng như nghiên cứu, phát triển các công nghệ mới.
Tôi cho rằng đây mới chính là nền tảng thiết kế hệ thống giúp VN tăng trưởng, phát triển mạnh mẽ trong tương lai.
530 tỉ đồng
Là số ngân sách dự kiến được Nhà nước chi hàng năm để ký hợp đồng tuyển chọn khoảng 6 Tổng công trình sư, khoảng 30 Kiến trúc sư trưởng hệ thống và khoảng 124 Kiến trúc sư trưởng của Bộ, ngành, địa phương, trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Để khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo được lan tỏa
. Có quan điểm cho rằng cơ chế chính là điểm nghẽn khiến nhiều nhân lực giỏi về khoa học công nghệ ở nước ngoài còn ngại ngần quay về. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?
+ VN cần một không gian rộng lớn hơn để phát triển khoa học công nghệ và Đảng, Nhà nước ta đã nhìn nhận ra điều này. Tri thức là nguồn lực, tài sản vô giá, càng đầu tư phát triển thì nó sẽ càng lan tỏa.
Cơ chế là một trong những điểm nghẽn nhưng nhìn trong tổng thể theo tôi đó không phải là tất cả. Ở đây còn là điều kiện về môi trường làm việc để giúp các nhà khoa học, chuyên gia có đủ không gian phát huy tối đa các tiềm năng, thế mạnh của họ.
Chỉ khi các nhà khoa học được tạo điều kiện, được đầu tư về kinh phí và có mục tiêu cụ thể thì họ mới tự chủ trong xây dựng phương pháp làm việc, xây dựng đội nhóm… để dẫn dắt, đạt kết quả như mong muốn.

Theo GS Nguyễn Đức Khương, điều quan trọng nhất với một nhà khoa học là là nghiên cứu của họ được ứng dụng vào thực tiễn. Ảnh minh họa: THANH THÙY
Ngoài ra, các nhà khoa học cũng rất cần sự hỗ trợ từ các cơ quan liên quan. Tôi ví dụ một nhà khoa học trong quá trình làm nghiên cứu sẽ cần kiểm chứng các kết quả nghiên cứu của họ thông qua các hội thảo, chuyên đề cả ở trong nước và quốc tế. Qua đó, họ có thể nhận được những phản hồi, ý kiến góp ý nhằm hoàn thiện sản phẩm nghiên cứu. Những điều này rất cần đến sự hỗ trợ về thủ tục, giấy tờ, visa…
Với một nhà khoa học, điều quan trọng nhất là nghiên cứu của họ được ứng dụng vào thực tiễn. Đây là quá trình chuyển hóa tri thức đòi hỏi sự tham gia của đội ngũ nghiên cứu chuyên nghiệp.
Tính chuyên nghiệp thể hiện ở khả năng kết nối để hình thành một hệ sinh thái, trong đó Nhà nước tạo lập môi trường thuận lợi; các trường ĐH, viện nghiên cứu có đội ngũ chuyên gia thực hiện đề tài; đồng thời có lực lượng chuyên trách chuyển giao, đưa tri thức khoa học công nghệ vào đời sống. Việc này bao gồm cả áp dụng trong quản lý doanh nghiệp, ứng dụng vào dây chuyền sản xuất, cải tiến chất lượng sản phẩm, nâng cao hàm lượng công nghệ trong các quy trình sản xuất – kinh doanh.
Đặc biệt, sự kết nối này phải gắn chặt với cộng đồng doanh nghiệp, nơi trực tiếp sáng tạo ra giá trị cho nền kinh tế.
VN đang có tốc độ tăng trưởng cao, năng động. Do vậy, chúng ta cần tạo ra những không gian thuận lợi, thay đổi cơ chế thông thoáng, kết nối giữa các chủ thể Nhà nước - viện - trường - doanh nghiệp… để tạo điều kiện cho các nhà khoa học cống hiến.
Người VN rất giỏi, bởi trước mỗi khó khăn, thách thức thì đều tìm được lối ra. Sự sáng tạo, kiên trì, bền bỉ cũng như sự kết nối để trở thành cộng đồng đoàn kết trước những khó khăn chính là đầu vào quan trọng giúp biến những điều không thể thành có thể. Đồng thời tạo cảm hứng, lan tỏa các giá trị của VN ra thế giới.
. Xin cảm ơn ông.
Việt Nam sẽ có 600.000 chuyên gia và nhà khoa học nếu…
Tôi từng tham gia nhiều cuộc làm việc giữa lãnh đạo Đảng, Nhà nước và kiều bào ta ở nhiều nơi trên thế giới. Một trong những câu hỏi được kiều bào quan tâm nhiều nhất là khi đã nhập quốc tịch nước ngoài thì làm thế nào để có được hộ chiếu hay mua nhà ở VN, làm sao để có giấy tờ đi lại VN thường xuyên.
Thời gian qua, chúng ta đều thấy Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm, có những điều chỉnh về pháp luật, giúp bà con kiều bào có thể tham gia sâu hơn vào hoạt động kinh tế - xã hội trong nước. Bà con Việt kiều giờ đã có thể đứng tên mua nhà ở VN, việc làm hộ chiếu cũng đơn giản hơn rất nhiều…
Rất nhiều kiều bào ta ở nước ngoài là những trí thức, nhà khoa học, chuyên gia… được đào tạo rất bài bản, có kinh nghiệm làm việc trong những tập đoàn quốc tế. Đây là nguồn lực tri thức rất lớn mà chúng ta cần huy động, tạo điều kiện để họ đóng góp cho quá trình xây dựng, phát triển đất nước, nhất là trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình.
Thử làm một phép tính đơn giản, chỉ cần thu hút được 10% trí thức, chuyên gia trong tổng số 6 triệu kiều bào trên khắp thế giới hiện nay về nước làm việc và cống hiến, VN đã có 600.000 chuyên gia và nhà khoa học rồi.
GS NGUYỄN ĐỨC KHƯƠNG
*****
Ý KIẾN:
TS NGUYỄN THỊ THU TRÀ, Phó Giám đốc điều hành nghiên cứu Trường CNAM (Pháp):
Chi tiêu cho R&D Việt Nam còn quá thấp
Chính phủ Pháp chi gần 60 tỉ euro cho nghiên cứu và phát triển (R&D), tương đương 2,18% GDP (năm 2022-2023). Trong đó, khu vực tư nhân đóng góp 66%, nghĩa là doanh nghiệp là chủ thể chính của đổi mới sáng tạo; còn Nhà nước chỉ hỗ trợ 34%. Họ cũng có cơ chế ưu đãi thuế rất rõ ràng. Riêng năm 2021, Pháp đã giảm thuế khoảng 2,7 tỉ euro cho những doanh nghiệp trong lĩnh vực đầu tư R&D. Pháp còn có chính sách hỗ trợ tài chính cho các luận án tiến sĩ hợp tác giữa doanh nghiệp và các trường ĐH...
Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới 2024, tỉ lệ chi tiêu cho R&D trên GDP của VN tăng từ 0,3% vào năm 2013 lên 0,43% vào năm 2021, một con số theo tôi còn rất khiêm tốn. Hiện chúng ta đặt mục tiêu nâng kinh phí chi R&D đạt 2% GDP vào năm 2030.
Thực tiễn cho thấy VN chưa có một hệ sinh thái R&D hoàn chỉnh. Có doanh nghiệp, có trường, viện, nhà khoa học nhưng các bên chưa kết nối đủ chặt chẽ, mỗi bên còn làm việc theo hướng riêng...
Môi trường nghiên cứu cũng chưa tạo được động lực bền vững cho nhà khoa học. Nhiều nhà nghiên cứu giỏi thiếu cơ hội tiếp cận đề tài lớn, thiếu tài chính hoặc không nhìn thấy tương lai dài hạn. Chính điều này khiến họ dễ nản lòng. Đáng chú ý, cơ chế, chính sách đãi ngộ, trọng dụng nhân tài còn nhiều bất cập, cần điều chỉnh để tạo sự công bằng và minh bạch.
-----
Ông HUỲNH NGỌC THÁI ANH, Trường Công nghệ TT&TT - ĐH Cần Thơ:
Thu hút nhân lực cần tính đến cơ chế và kết nối
Chính sách thu hút nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học công nghệ từ nước ngoài về nước là đúng đắn và phù hợp với xu thế thời đại. Tuy nhiên, cần tính đến nhiều yếu tố.
Ở mỗi quốc gia sẽ có những cơ chế hỗ trợ khác nhau trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ. Tuy nhiên, khi tiếp xúc với các nhà khoa học VN và gốc Việt ở nước ngoài, một số người bày tỏ băn khoăn về những cơ chế, chính sách của chúng ta.
Đây cũng là lý do khiến nhiều người chưa mặn mà với việc quay về. Kế đó, một số nhà khoa học người Việt ở nước ngoài khi về nước gặp một số khó khăn trong tiếp cận với mạng lưới chuyên gia trong nước. Điều này khiến sự hợp tác gặp không ít trở ngại.
Để thu hút được các Tổng công trình sư, KTS trưởng ở nước ngoài về, có lẽ VN cần có thêm nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi để lắng nghe, hiểu hơn những khó khăn mà các trí thức, chuyên gia, nhà khoa học đang gặp nếu về nước làm việc. Từ đó, cơ quan liên quan có thể đưa ra chính sách, chủ trương hành động cho từng lĩnh vực, ngành nghề.
NGỌC DIỆP ghi