Vị thế của Đảng trong trái tim đồng bào - Bài cuối: Bản làng có Đảng

Dưới ánh sáng soi đường và niềm tin mãnh liệt của nhân dân với Đảng, Yên Bái - miền quê vùng cao Tây Bắc, nơi sinh sống của 57% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) đang chứng kiến sự đổi thay diệu kỳ trong cả diện mạo và sức sống, tạo nên bức tranh vùng cao đầy màu sắc ấm no, hạnh phúc.

Cán bộ và nhân dân xã Mỏ Vàng, huyện Văn Yên chung sức hỗ trợ người dân xóa nhà tạm, nhà dột nát.

Cán bộ và nhân dân xã Mỏ Vàng, huyện Văn Yên chung sức hỗ trợ người dân xóa nhà tạm, nhà dột nát.

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo, quan tâm triển khai các chính sách, ưu tiên đầu tư nguồn lực cho vùng đồng bào DTTS, nhiều bản làng vùng cao Yên Bái đã khoác lên mình một diện mạo rực rỡ. Xã Mỏ Vàng, huyện Văn Yên là một trong số đó.

Trước đây, Mỏ Vàng được xác định là địa phương có nhiều khó khăn, trái ngược hoàn toàn với sự giàu có như cái tên của xã, bởi xã có diện tích đất rộng nhưng phần lớn lại là đất đá; địa hình phức tạp, giao thông bị chia cắt, dân cư phân tán, kinh tế chậm phát triển, tỷ lệ hộ nghèo cao.

Vậy mà, Mỏ Vàng hôm nay vừa được công nhận là xã đạt chuẩn nông thôn mới. Cả xã chỉ còn 134/1.080 hộ nghèo, chiếm 12,4%, thu nhập bình quân đầu người đạt trên 45 triệu đồng/năm.

Xã đã hình thành được gần 5.000 ha quế, giá trị thu nhập bình quân mỗi năm trên 25 tỷ đồng. Toàn xã có 30 hợp tác xã, có mô hình liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm quế của Hợp tác xã Dịch vụ tổng hợp Thác Tiên. Chưa kể, xã có đường bê tông, ô tô về tới thôn, có điện, mạng Internet và ngày càng có nhiều những ngôi nhà xây bề thế, ô tô đỗ sân… Căn nhà xây khang trang, đầy đủ tiện nghi đắt tiền của ông La Tài Quan nổi bật giữa rừng xanh ở thôn Thác Tiên.

Ông Quan cho biết: "Trước đây, tôi chưa quan tâm phát triển kinh tế nên cái đói, cái nghèo vẫn đeo đuổi mãi nhưng từ khi biết trồng quế, cuộc sống đã ấm no, hạnh phúc. Mình có đất, cán bộ đến tuyên truyền, vận động và hướng dẫn kỹ thuật về trồng rừng, chủ yếu là cây quế. Hiện, gia đình có trên 50 ha quế, hầu hết đã đến tuổi khai thác. Có được cơ ngơi như hôm nay một phần là nhờ cán bộ đấy”. Phần lớn người dân Mỏ Vàng đang thoát nghèo và giàu lên từ cây quế, hộ ít thì có 1 - 2 ha, hộ nhiều thì cả 50 - 100 ha.

Ở các thôn/bản vùng cao Yên Bái hôm nay, không chỉ thấy rõ sự đổi thay về vật chất, mà còn cảm nhận được sức sống mới đang trỗi dậy. Đồng bào DTTS đã quan tâm tới giáo dục, chăm lo sức khỏe, dinh dưỡng cho trẻ em. Trẻ em được đến trường học chữ, được vui chơi, sinh hoạt trong những ngôi trường khang trang. Người lớn được tham gia các lớp học nghề, được nâng cao kiến thức, kỹ năng sản xuất. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ được khôi phục và phát triển, góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc.

Chính sự lãnh đạo, quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước đã trở thành nguồn sức mạnh to lớn để đồng bào thoát khỏi cái đói, cái nghèo và từng bước xây dựng cuộc sống hạnh phúc.

Những năm qua, Yên Bái đã tích cực thực hiện các chính sách, chương trình, dự án trong vùng đồng bào DTTS, trọng tâm là các chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) một cách thường xuyên, liên tục và hiệu quả.

Theo báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu các DTTS tỉnh Yên Bái lần thứ IV năm 2024, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Yên Bái đã quan tâm bố trí trên 32.000 tỷ đồng đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội vùng cao, vùng đồng bào DTTS. Các chương trình, chính sách hỗ trợ bao trùm ở mọi lĩnh vực trong cuộc sống, từ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi, trường học, nhà văn hóa... cho tới chuyển đổi ngành nghề, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, giảm thiểu tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết, quan tâm người có uy tín, vay vốn tín dụng ưu đãi, hỗ trợ cây, con giống, máy móc...

Trẻ em vùng đồng bào DTTS được quan tâm, tạo điều kiện học tập tốt.

Trẻ em vùng đồng bào DTTS được quan tâm, tạo điều kiện học tập tốt.

Giai đoạn 2019 - 2024, đã có 94.760 lượt hộ DTTS vay với số tiền 4.580 tỷ đồng để chăn nuôi, phát triển sản xuất; xây dựng công trình nước sạch và công trình vệ sinh; giải quyết việc làm, duy trì việc làm ổn định cho người lao động; phát triển kinh doanh; học sinh, sinh viên vay vốn để trang trải chi phí học tập...

Bên cạnh đó, tỉnh còn có nhiều cách làm sáng tạo, thực hiện lồng ghép các nguồn lực của Nhà nước, huy động nguồn lực xã hội hóa để chủ động, kịp thời triển khai thực hiện hiệu quả các chính sách, đề án của trung ương. Tiêu biểu như việc hỗ trợ thêm 20 triệu đồng/nhà đối với nhà xây mới, 10 triệu đồng/nhà đối với nhà sửa chữa ngoài mức hỗ trợ từ ngân sách trung ương, giúp tăng mức hỗ trợ tại 2 huyện Mù Cang Chải, Trạm Tấu được nâng lên là 60 triệu đồng/nhà đối với làm mới và 30 triệu đồng/nhà đối với sửa chữa.

Các huyện, thị, thành phố còn lại lần lượt là 50 triệu đồng/nhà và 25 triệu đồng/nhà, đã trở thành động lực mạnh mẽ giúp người nghèo mạnh dạn xây dựng, sửa chữa nhà ở đạt chuẩn với 3.022 ngôi nhà được xây mới và sửa chữa trong 2 năm 2023 - 2024. Thứ nữa là việc tỉnh ban hành nhiều chính sách đặc thù rất quan trọng, cần thiết và phù hợp với tình hình thực tế tại vùng đồng bào DTTS hiện nay khi mà ngày càng có nhiều xã vùng khó đạt chuẩn nông thôn mới như: hỗ trợ tiền ăn trưa tập trung đối với học sinh học 2 buổi/ngày tại trường phổ thông dân tộc bán trú nhưng chưa đủ điều kiện hưởng chính sách theo Nghị định số 116/2016/NĐ-CP; hỗ trợ tiền ăn và mua gạo cho học sinh bán trú thôi hưởng chính sách theo quy định tại Nghị định số 116/2016/NĐ-CP kể từ thời điểm xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; hỗ trợ mức đóng bảo hiểm y tế đối với người dân thường trú tại các xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh khi xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới theo Nghị quyết số 37/2023/NQ-HĐND ngày 08/7/2023 của HĐND tỉnh…

Ngoài ra, còn có rất nhiều chính sách khác như: hỗ trợ phát triển sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản theo Nghị quyết số 69/2020/NQ-HĐND ngày 16/12/2020 của HĐND tỉnh; các chính sách thu hút nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực y tế, giáo dục...

Nhờ đó đến nay, toàn tỉnh đã có 100% xã có đường giao thông nông thôn được rải nhựa hoặc đổ bê tông đến trung tâm xã; 100% các thôn, bản có đường tới trung tâm thôn, trong đó có 95,9% thôn, bản có đường ô tô đến trung tâm được bê tông hóa; 100% xã, thị trấn có lưới điện quốc gia, tỷ lệ số hộ có điện lưới quốc gia đạt 97,6%; tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh đạt 96%. Toàn tỉnh cũng có 79,3% xã, phường, thị trấn có nhà văn hóa; 72% xã có khu thể thao; tỷ lệ phòng học được xây dựng kiên cố đạt 87,8%; tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y tế đạt 86,1%...

Hạ tầng công nghệ thông tin vùng đồng bào DTTS được tỉnh quan tâm đầu tư, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận thông tin, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và bắt nhịp với công cuộc chuyển đổi số. Hiện nay, 100% xã, phường, thị trấn đã có đường truyền băng rộng cáp quang; mạng di động 4G được phủ sóng trên 98,5% thôn, bản, tỷ lệ người dân được nghe, xem phát thanh, truyền hình đạt 99,4%... Đến hết năm 2024, toàn tỉnh còn 12.575 hộ nghèo và 6.612 hộ cận nghèo; 28 xã đặc biệt khó khăn đã đạt chuẩn nông thôn mới.

Hàng loạt con số, câu chuyện từ thực tiễn xuyên suốt chặng đường qua đã trở thành minh chứng sinh động cho sự phát triển, tiến bộ ở vùng đồng bào DTTS dưới sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Rõ ràng, Đảng đã hiện hữu, không còn trừu tượng, vô hình mà đang được đồng bào quan niệm, nhìn nhận, đánh giá rất thực tế. Đó là thông qua các chủ trương, đường lối hoạch định vì dân, là qua việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và qua cả những việc làm, nhân cách cán bộ, đảng viên ở nơi họ sinh sống. Do vậy mà đường lối đúng đắn, cán bộ, đảng viên có năng lực trí tuệ, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có phẩm chất, đạo đức trong sáng, sống trung thực với mình, với đồng chí, đồng bào, có tác phong sâu sát quần chúng, vì nhân dân mà phấn đấu, hy sinh... sẽ là điều kiện cơ bản, quyết định uy tín chính trị của Đảng; đồng thời, cũng là khẳng định vị thế của Đảng trong trái tim đồng bào - uy tín, trí tuệ và nhân văn.

Hoài Anh

Nguồn Yên Bái: https://baoyenbai.com.vn/11/347502/vi-the-cua-dang-tr111ng-trai-tim-dong-bao---bai-cuoi-ban-lang-co-dang.aspx
Zalo