Vì sao các ngân hàng trung ương chạy đua phát hành CBDC?

CBDC - tiền tệ kỹ thuật số của ngân hàng trung ương là dạng tiền kỹ thuật số do Ngân hàng Trung ương phát hành và bảo đảm giá trị, khác với tiền mã hóa (như Bitcoin, Ethereum) vốn không được chính phủ hay ngân hàng trung ương bảo trợ…

PGS.TS Nguyễn Anh Thu, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế – Đại học Quốc gia Hà Nội.

PGS.TS Nguyễn Anh Thu, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế – Đại học Quốc gia Hà Nội.

Ngày 19/9, Trường Đại học Kinh tế – Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức Hội thảo quốc tế Digital Assets and Financial Innovation.

Phát biểu khai mạc, PGS.TS Nguyễn Anh Thu, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế, khẳng định tài sản số, tiền kỹ thuật số của Ngân hàng Trung ương (CBDC) hay tài chính phi tập trung,... là những chủ đề mang tính thời sự, sẽ mở ra động lực tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn tới, song cũng đặt ra những thách thức trong pháp lý, quản trị rủi ro.

Hội thảo, với sự tham gia của giới học thuật, nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp và tổ chức quốc tế, đã tiếp cận toàn diện những xu hướng, cơ hội – thách thức, đồng thời thảo luận khung chính sách liên quan đến các lĩnh vực này.

Trong đó, khi trả lời câu hỏi “Vì sao các ngân hàng trung ương chạy đua phát hành CBDC?”, GS. Andreas Hauskrecht, từ trường kinh doanh thuộc Đại học Indiana (Mỹ), đã chỉ ra nhiều lý do giải thích nỗ lực này.

GS. Andreas Hauskrecht, từ trường kinh doanh thuộc Đại học Indiana (Mỹ), đưa ra những lưu ý thẳng thắn về CBDC.

GS. Andreas Hauskrecht, từ trường kinh doanh thuộc Đại học Indiana (Mỹ), đưa ra những lưu ý thẳng thắn về CBDC.

Trong khoảng 20 năm qua, tại Mỹ hay nhiều quốc gia khác, vai trò trung gian tài chính của ngân hàng – tức cung cấp vốn cho nền kinh tế – đã suy giảm đáng kể.

Sự trỗi dậy của fintech và techfin càng đẩy nhanh xu hướng này. Các ngân hàng mất dần vị thế, trong khi hệ thống thanh toán tư nhân và tiền điện tử (e-money) ngày càng phổ biến, khiến cơ chế vận hành tiền tệ truyền thống bị suy yếu. Với ngân hàng trung ương, đây là một mối lo lớn: họ dần mất khả năng tác động trực tiếp đến thị trường.

Tiền mã hóa (cryptocurrency) ngày càng tăng về khối lượng và giao dịch, nhưng phần lớn không đáp ứng đủ tiêu chuẩn để được coi là “tiền”. Chẳng hạn, Bitcoin có lẽ chỉ là một tài sản đầu cơ, không phải tiền. Tuy nhiên, đồng tiền kỹ thuật số này và stablecoin đang cho thấy khả năng thay thế tiền pháp định trong một số giao dịch, đe dọa tính độc quyền trong việc phát hành tiền của ngân hàng trung ương.

Chính vì vậy, ngân hàng trung ương buộc phải phản ứng. Tiền tệ kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (CBDC) được xem là một lời giải.

“Tuy nhiên, điều này cũng đồng nghĩa khả năng làm suy yếu vai trò trung gian tài chính các ngân hàng thương mại và làm lung lay cơ chế dựa trên dự trữ một phần vốn”, giáo sư đặc biệt nhấn mạnh khi phát biểu.

Bên cạnh đó, mối lo Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) có thể phát hành e-dollar cũng đã trở thành động lực để nhiều ngân hàng trung ương khác gấp rút phát triển đồng tiền số riêng.

Theo đó, một diễn biến nhạy cảm gần đây là Trung Quốc, Ả Rập Xê Út, Iran cùng một số ngân hàng trung ương khác tìm cách xây dựng hệ thống thanh toán dựa trên CBDC, nhằm giảm phụ thuộc vào đồng USD.

Tuy nhiên, câu hỏi trọng tâm khác cũng được đặt ra là liệu CBDC nên theo dõi được (account-based) hay không theo dõi được (token-based).

Trong đó, mô hình account-based giống hệ thống ngân hàng thương mại hiện nay, cho phép kiểm soát dòng tiền nhưng làm dấy lên lo ngại xâm phạm quyền riêng tư.

Còn mô hình token-based tương tự tiền mặt kỹ thuật số, tăng tính ẩn danh nhưng dễ bị lợi dụng cho hoạt động rửa tiền, tài trợ khủng bố và kinh tế ngầm.

Ngoài ra, khi nói về mô hình cung cấp dịch vụ tài khoản, GS. Andreas Hauskrecht cho rằng có hai cách tiếp cận.

Thứ nhất là mô hình trực tiếp, ngân hàng trung ương mở tài khoản cho người dân, trực tiếp cung cấp dịch vụ thanh toán. Hạn chế là mô hình này khiến ngân hàng thương mại mất phần lớn tiền gửi, mất dữ liệu giao dịch và buộc phải thu phí bù đắp.

Thứ hai là mô hình gián tiếp, người dân vẫn mở tài khoản tại ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tài chính phi ngân hàng, nhưng các tổ chức này phải nắm giữ lượng CBDC tương ứng tại ngân hàng trung ương. Đây là mô hình được đánh giá khả thi hơn, tuy nhiên sẽ làm giảm đáng kể lợi thế cạnh tranh và lợi nhuận từ tiền gửi rẻ của ngân hàng.

Liên quan đến hành lang pháp lý, TS. Nguyễn Hồng Minh, Trường Đại học Kinh tế, nhấn mạnh rằng tại Việt Nam cũng như trên thế giới, các quy định liên quan đến stablecoin và tài sản mã hóa còn rất hạn chế, chưa có hướng dẫn cụ thể về điều kiện phát hành hay sử dụng. Điều này đặt ra nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro kỹ thuật, tính bảo mật và an toàn. Với người dùng, hiện nay cũng chưa có cơ chế pháp lý rõ ràng để bảo vệ khi tham gia vào thị trường này.

Hội thảo đã thu hút đông đảo sự quan tâm từ các nhà khoa học trong và ngoài nước, nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp, cơ quan truyền thông và các tổ chức quốc tế.

Hội thảo đã thu hút đông đảo sự quan tâm từ các nhà khoa học trong và ngoài nước, nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp, cơ quan truyền thông và các tổ chức quốc tế.

Tổng kết Hội thảo, Lãnh đạo Khoa Tài chính – Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế đã đưa ra một số kết luận khuyến nghị chính sách:

Trong ngắn hạn

Thúc đẩy tư duy phát triển bền vững trong ứng dụng công nghệ tài chính, tránh tâm lý chạy theo xu hướng ngắn hạn, thiếu đánh giá rủi ro. Chính sách cần được ban hành có lộ trình, dựa trên phân tích đa chiều về kinh tế, tài chính và công nghệ.

Tăng cường giám sát rủi ro liên quan đến an ninh mạng, rửa tiền và biến động thị trường tài sản mã hóa nhằm bảo đảm ổn định hệ thống tài chính.

Trong trung, dài hạn

Trong trung hạn, phát triển nguồn nhân lực tài chính – công nghệ chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu đổi mới sáng tạo, quản lý rủi ro và vận hành mô hình kinh doanh mới; xây dựng hệ sinh thái tài chính số toàn diện và đẩy mạnh nghiên cứu, hợp tác quốc tế về tài chính số, tận dụng kinh nghiệm quốc tế để nâng cao sức chống chịu của hệ thống tài chính Việt Nam.

Trong dài hạn, xây dựng chiến lược và thực hiện các chính sách đầu tư phát triển công nghệ và tài chínhtrọng điểm có mục tiêu, có trọng tâm, đồng thời kết hợp chuyển đổi số với mục tiêu tăng trưởng xanh và bền vững

Ngô Huyền

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/vi-sao-cac-ngan-hang-trung-uong-chay-dua-phat-hanh-cbdc.htm