Vị quan triều Nguyễn thanh liêm cảm hóa cả đạo tặc
Vốn là vị quan nổi tiếng thanh liêm, thiết diện vô tư, Nguyễn Văn Hiếu không chỉ được dân thương mến mà tiếng tăm của ông còn cảm hóa cả đạo tặc...

Quan lại thời Nguyễn. Ảnh: ITN.
Lịch sử Việt từng xuất hiện nhiều vị phán quan công minh, liêm chính khiến tội phạm kính nể, khiếp sợ như Đoàn Khung, Trần Thì Kiến, Phí Trực, Nguyễn Mại... Trong đó, Tổng đốc Nguyễn Văn Hiếu của triều Nguyễn bằng lối sống nghiêm khắc, giản dị, đức độ của mình đã khiến ngay cả đạo tặc cũng tránh xa khỏi nơi ông trị nhậm.
Vị quan thanh liêm
Theo sách “Gò Công xưa và nay”, Tổng đốc Nguyễn Văn Hiếu (1765-1835) quê ở Kiến Hòa, tỉnh Định Tường (nay là Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang). Ông là con trai của Chưởng y cấm vệ Nguyễn Văn Đán. Dù sinh ra ở Nam Bộ nhưng Nguyễn Văn Hiếu lại là cháu 12 đời của Nguyễn Xí - danh tướng nổi tiếng có công giúp Lê Lợi đánh đuổi quân Minh xâm lược.
Nguyễn Văn Hiếu lúc nhỏ gia đình nghèo khó, phải làm nghề cắt cỏ thuê kiếm sống. Năm 1785, ông gia nhập quân Đông Sơn dưới quyền của Võ Tánh - một hổ tướng nổi tiếng của Nguyễn Ánh, lập được nhiều chiến công trên chiến trường, trải qua nhiều chức vụ khác nhau trong quân đội nhà Nguyễn. Sau khi triều Nguyễn thiết lập, vua Gia Long lên ngôi đã giao cho Nguyễn Văn Hiếu làm trấn thủ Bình Định, sau ông lại được điều ra làm trấn thủ Sơn Nam Hạ (Nam Định ngày nay).
Ông Hiếu tuy xuất thân là tướng võ nhưng có phong thái của một nho thần, luôn đề cao đạo đức, liêm chính. Theo sử sách, có lần các cử nhân tân khoa đến yết kiến, ông đều tiếp đãi rất ân cần, rồi nói rằng: “Mười năm đèn sách mới có ngày nay, tôi xin mừng cho các thầy. Nhớ ngày sau được bổ dụng làm quan, cũng nên giữ gìn như lúc tân khổ, chớ có xa xỉ quá để mang tiếng xấu cho thân danh, phụ ý tốt của triều đình”.
Tư cách như vậy, nên dù làm quan lớn đã lâu, gia cảnh nhà ông vẫn nghèo, lương bổng chỉ đủ tiêu dùng. Người vợ đem chuyện thưa với ông, ông cười nói: “Bà không nhớ lúc cắt cỏ thuê sao? Lúc ấy, mỗi khi đi đâu thì vợ chồng phải đổi áo mà mặc, chỉ lo đủ cái ăn cho mỗi ngày, nay sánh với xưa, đã hơn gấp mấy lần, thế mà còn muốn lấy của bất nghĩa để làm giàu sao?”. Từ đó, vợ ông không dám đem chuyện tiền tài, lợi danh thưa với ông nữa.
Đạo tặc nghe tiếng bỏ đi
Theo “Đại Nam liệt truyện”, khi làm quan, Nguyễn Văn Hiếu được dân thương mến, lại nghiêm trị trộm cắp, nên họ đều nể sợ. Biết tin ông đến trị nhậm, bọn trộm cướp nói với nhau rằng: “Ông trấn thủ là người nhân huệ, ấy là Phật xuất thế, bọn ta phải tránh đi”. Vì thế, mỗi nơi ông đến làm quan, bọn đạo tặc thường tránh xa.
Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), khi đi tuần ở Bắc Hà, vua Minh Mạng, nghe tiếng dân chúng ca ngợi Nguyễn Văn Hiếu làm quan thanh liêm, thăng chức vượt một cấp, thưởng một ống nhòm mạ vàng, một thanh gươm mạ vàng, một khẩu súng có nạm chữ vàng.
Theo sách “Gò Công xưa và nay”, cuối năm 1823, khi được cử làm trấn thủ ở Thanh Hoa (Thanh Hóa ngày nay), các quan viên địa phương đến yết kiến ông. Một hôm có một thổ ty đem lễ vật đến ra mắt, ông Hiếu lấy lời ôn tồn từ khước.
Thổ ty ra về, một thuộc lại của ông lẻn theo, dọa nạt ông này để lấy lễ vật. Biết tin, ông Hiếu giận lắm, lập tức đem ra chém. Các quan đều can gián, nhưng ông không nghe. Chém rồi, ông dâng sớ xin chịu tội với triều đình, bị giáng ba cấp, nhưng vẫn cho lưu lại chức cũ.
Dù nghiêm khắc, nhưng Nguyễn Văn Hiếu lại là người rất thương dân, không hề cứng nhắc. Khi đang làm quan trấn ở Nghệ An, một lần Nguyễn Văn Hiếu cùng các đồng liêu đi xét án, thấy có tên trộm đã thú tội rồi vẫn còn bị tra tấn, ông nói rằng:
“Chúng nó vì cùng cực nên phải làm việc gian phi, đêm khuya soi tường khoét vách, khó nhọc mới lấy được tiền người ta. Nay nó đã nhận tội, thì cứ chiếu theo luật mà trị, hà tất phải vẽ vời thêm làm gì.
Thử hỏi: Ở các nha môn, có những kẻ trên nhà cao, ngồi nệm, dựa gối, giữa ban ngày, vẫy ngòi bút làm tiền người ta không chút khó nhọc, các người ấy sánh với bọn ăn trộm kia, tội ai nặng hơn?”. Nghe Nguyễn Văn Hiếu nói vậy ai nấy đều giật mình.
Ông Nguyễn Văn Hiếu làm quan trải 2 đời vua Nguyễn là Gia Long và Minh Mạng. Năm Minh Mạng thứ 14 (1835), Nguyễn Văn Hiếu được phong tước Lương Năng bá, rồi mất, thọ 70 tuổi. Biết tin, nhà vua thương tiếc, tặng tước Tả quân đô thống phủ, ban cho 1.000 quan tiền để lập đàn tế.
Đến năm Tự Đức thứ 5 (1851), ông Nguyễn Văn Hiếu được thờ ở miếu Trung hưng Công thần. Sáu năm sau, lại được thờ ở Hiền Lương Từ. Cũng dưới triều Tự Đức, một hôm nhà vua phê vào giấy long đằng hai chữ Nguyên - Lương, rồi sai người đem treo tại từ đường nhà ông. Từ đó, con cháu của ông đổi tên lót thành Nguyễn Lương thay vì Nguyễn Văn - Theo sách “Gò Công xưa và nay”.