Về hai từ láy 'dằn dỗi' và 'vùng vằng'
Trong chuyên mục Cà kê chuyện chữ nghĩa số trước, chúng tôi đã đề cập đến một số từ ghép đẳng lập được cấu tạo bởi các yếu tố gốc Hán: mĩ mãn, mĩ miều, miên man. Hôm nay, chúng tôi xin phân tích kết cấu đẳng lập của hai từ thường bị nhận lầm là từ láy dằn dỗi, vùng vằng (phần để trong ngoặc kép là nguyên văn của Từ điển từ láy tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ - Hoàng Văn Hành chủ biên - NXB Khoa học Xã hội - 2011; phần xuống dòng là trao đổi của chúng tôi):

1. “DẰN DỖI đgt. Tỏ ý hờn giận, không bằng lòng bằng lời nói hoặc cử chỉ nặng nề. Dằn dỗi bỏ đi. Giọng dằn dỗi”.
“Dằn dỗi” là từ ghép đẳng lập [nghĩa đồng đại]: “dằn” là động tác tỏ thái độ bực tức, như dằn bát cơm, dằn cái chén xuống mâm, xuống bàn (như Dằn đũa dằn bát tỏ ý không ưng); “dỗi” là tỏ thái độ hờn giận, làm vẻ không cần đến nữa (như dỗi cơm; dỗi hờn). Tính chất hợp nghĩa của “dằn dỗi” thể hiện ngay trong chính lời giảng của Từ điển từ láy tiếng Việt: “tỏ ý hờn giận” (dỗi) + “cử chỉ nặng nề” (dằn).
Để khách quan hơn, sau đây chúng tôi xin trích dẫn lời giảng của Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên - Vietlex): “dằn: đặt mạnh xuống để tỏ một thái độ nào đó như tức giận, không bằng lòng: “Nhớ ai cơm chẳng buồn ăn, Đã nâng lấy bát lại dằn xuống mâm (cd)”; “dỗi • đg. tỏ thái độ giận, không bằng lòng bằng cách làm như không cần đến nữa, không thiết nữa: “Khốn nạn quá, buổi sáng giận chồng thì dỗi cơm, buổi chiều hết gạo! Mợ làm tôi đau lòng quá! - Nguyễn Công Hoan”; “dằn dỗi • đg. tỏ ý hờn giận bằng những lời nói, cử chỉ vùng vằng, khó chịu: “Kim dằn dỗi quay mặt vào vách: Chết là thôi, chẳng còn điều nọ tiếng kia rắc rối nữa! - Lan Khai”.
Tham khảo: Trong sách Hình thái học trong từ láy tiếng Việt, Phan Ngọc cho rằng: “Dằn dỗi /zằn zỗi/ (0 +): “Dỗi” là chính tố có nghĩa than phiền như trong dỗi cơm. “Dằn” ở đây là tiền tố nhấn mạnh, đồng âm với “dằn” trong dằn xuống”.
Tuy nhiên, những phân tích và dẫn chứng trên đây cho thấy, “dằn” không phải là “tiền tố” mà là thành tố đẳng lập với “dỗi”, và không chỉ đồng âm mà còn đồng nghĩa với “dằn xuống”.
2. “VÙNG VẰNG đgt. Có những điệu bộ như lắc thân, vung vẩy hai cánh tay hoặc có lời nói, cử chỉ để tỏ ra không bằng lòng, giận dỗi. Động một tí là vùng vằng. Chẳng nói chẳng rằng vùng vằng bỏ đi. “Can thì câu trước câu sau đã vùng vằng” (Ma Văn Kháng) //vùng và vùng vằng (ý nhấn mạnh)”.
“Vùng vằng” là từ ghép đẳng lập [nghĩa đồng đại]: “vùng” nghĩa là cựa, vằng mạnh thân người để thoát khỏi tình trạng bị khống chế (như Đã túm được thằng ăn cắp mà nó vùng ra mất; Voi kia sức nó khỏe hung, Người ta trói nó nó vùng đứt dây - Ca dao); “vằng” nghĩa là vùng, hất văng ra để thoát khỏi sự níu giữ, hoặc ôm chặt (như Nó vằng ra và chạy mất). “Vùng vằng” là điệu bộ, cử chỉ giận dỗi, không bằng lòng, trông như “vùng”, như “vằng” ra khỏi sự trói buộc, kiềm chế.
Từ điển tiếng Việt (sách đã dẫn) giảng: “vùng • đg. 1 dùng sức vận động mạnh và đột ngột toàn thân hoặc một bộ phận cơ thể nào đó để thoát khỏi tình trạng bị trói, bị níu giữ: cố vùng ra nhưng không được. Đn: vằng [ng2]”; “vằng 2 dùng sức hất mạnh người sang hai bên để thoát khỏi sự níu giữ: giữ chặt thế mà vẫn vằng ra được ~ “Phúc bịt miệng Son, nhưng cô vằng tay ra như một con chim cắt xù lông vẫy cánh (...)” (Nguyễn Khắc Trường). Đn: vùng [ng1]”; “vùng vằng • đg. từ gợi tả bộ điệu tỏ ra giận dỗi, không bằng lòng, bằng những động tác như vung tay vung chân, lúc lắc thân mình... vùng vằng đòi về ~ “An chạy theo lôi lại, nhưng Xuyến vùng vằng giật tay chạy tuốt xuống thang gác - Khái Hưng”.
Như vậy, “dằn dỗi” và “vùng vằng” là hai từ ghép đẳng lập chứ không phải từ láy.






























