Vào tù vì lừa 'chạy án'

Trong lúc bản thân còn chưa chấp hành án về tội trộm cắp tài sản, cũng không quen người có thẩm quyền, nhưng Lê Phước Trần Thị Hồng Nga (sinh năm 1979, trú phường Phước Long, TP. Nha Trang) vẫn nhận tiền, hứa giúp “chạy án” cho người khác. Kết quả, bị cáo tiếp tục lãnh thêm án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Nhận tiền “chạy án” rồi… tắt điện thoại

Theo hồ sơ, Nga có quen biết với bà T.T.B.N (trú TP. Nha Trang). Biết chồng bà N. bị khởi tố, điều tra, truy tố về tội môi giới mại dâm, sáng 30-7-2019, trong lúc uống cà phê, Nga hỏi thăm bà N. và nói sẽ hỏi xem có “chạy án" được không. Nga ra ngoài gọi điện thoại cho bà B.T.L (trú TP. Nha Trang), sau đó nói với bà N. là đã nhờ được người “chạy án”.

Hội đồng xét xử phúc thẩm tuyên án.

Hội đồng xét xử phúc thẩm tuyên án.

Sáng 7-8-2019, Nga gọi cho bà N., yêu cầu đưa 5 triệu đồng để giao dịch với những người có thẩm quyền giải quyết án. Hôm sau, Nga lại nói bà N. đưa thêm 5 triệu đồng và báo “giá chạy án” 50 triệu đồng. Thấy bà N. thắc mắc, Nga báo lại “giá chạy án” là 150 triệu đồng, nếu không được Nga sẽ trả lại toàn bộ.

Từ ngày 18-8 đến 21-9-2019, Nga đưa ra nhiều lý do như: Cần đặt cọc, cần đi gặp, giao dịch với người có thẩm quyền, đưa tiền cho cơ quan công an, viện kiểm sát, tòa án nhờ chỉ cách khai trước tòa, tiền “phát sinh", tiền “đặt cọc” thêm… để nhận tiền “chạy án” từ bà N. với tổng số tiền hơn 77 triệu đồng.

Tuy nhiên, đến ngày 16-10-2019, Tòa án nhân dân TP. Nha Trang vẫn xét xử, tuyên phạt chồng bà N. 4 năm 6 tháng tù về tội môi giới mại dâm. Bà N. nhiều lần gọi điện thoại cho Nga để đòi lại tiền nhưng Nga tắt máy. Bà N. đã trình báo cơ quan công an.

Vụ án đã được xét xử sơ thẩm lần đầu năm 2022, sau đó bị cấp phúc thẩm tuyên hủy. Năm 2024, Tòa án nhân dân TP. Nha Trang xử sơ thẩm lần 2, tuyên phạt bị cáo Nga 3 năm 6 tháng tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Sau đó, bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt và xem xét trách nhiệm hình sự của bà B.T.L.

Tòa bác kháng cáo

Ngày 26-2, Tòa án nhân dân tỉnh xét xử phúc thẩm lần 2. Tại phiên tòa, kiểm sát viên đề nghị bác kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bị cáo xin giảm hình phạt và hủy bản án sơ thẩm để xem xét trách nhiệm hình sự của bà L. vì cho rằng thông tin mà bị cáo nói với bà N. đều do bà L. nói; bị cáo đã chuyển phần lớn số tiền nhận được từ bà N. cho bà L. Bị cáo có giữ lại 10 triệu đồng đóng tiền học cho con, nhưng sau đó đã đưa tiếp cho bà L. 5 triệu đồng.

Hội đồng xét xử nhận định, bị cáo cho rằng mình không có ý thức lừa dối bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng cũng thừa nhận các hành vi đã thực hiện. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người tham gia tố tụng khác và tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ. Do đó, những hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bị cáo hứa với bà N. sẽ “chạy trắng án” cho chồng bà dù hoàn toàn không có khả năng này; đưa ra nhiều thông tin không có thật nhằm chiếm đoạt tiền của bà N., khiến bà N. tin tưởng đưa tiền cho bị cáo. Bị cáo tiếp tục phạm tội nhiều lần trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù tội trộm cắp tài sản (bản án năm 2017). Do đó, không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt.

Đối với bà B.T.L, ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm lần 1, tòa đã nhiều lần trả hồ sơ yêu cầu xem xét vai trò của bà L. Giai đoạn xét xử phúc thẩm lần 1, tòa đã hủy bản án sơ thẩm lần 1 để tiếp tục điều tra, xem xét trách nhiệm của bà L. Nhưng điều tra không chứng minh được tính xác thực trong lời khai của bị cáo. Mặt khác, theo lời khai của bị hại đã được bị cáo thừa nhận, bà N. chỉ gặp, đưa tiền trực tiếp cho Nga. Nga không cho bà N. gặp người chạy án. Nhân chứng V.Đ.T (trú TP. Nha Trang) xác nhận đã 2 lần nhận tiền từ bị cáo để đưa cho bà L., tổng cộng 15 triệu đồng. Sau mỗi lần nhận tiền, bà L. có đưa tờ giấy viết tay bày chồng bà N. cách chối tội tại tòa. Nhưng khi đối chất, bà L. không thừa nhận việc nhận tiền từ ông T. cũng như việc nhận lời chạy án; do Nga nài nỉ nên bà viết giúp lời khai không nhận tội cho chồng bà N. Ông T. cũng khai không thống nhất về 2 tờ giấy viết tay nêu trên. Như vậy, không thể căn cứ lời khai của ông T. để xác định sự liên quan giữa bà L. với hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, cấp phúc thẩm đã tuyên bác kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NGUYỄN VŨ

Hội đồng xét xử phúc thẩm tuyên án.

Hội đồng xét xử phúc thẩm tuyên án.

Nguồn Khánh Hòa: http://www.baokhanhhoa.vn/phap-luat/202502/vao-tu-vi-lua-chay-an-e702994/
Zalo