Văn học Việt đồng hành với dân tộc và khát vọng của nhân dân

Sau ngày 30-4-1975, một chương mới được mở ra trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Từ thời điểm này, cả nước tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh, nỗ lực thoát khỏi tình trạng bị bao vây, cấm vận và khủng hoảng kinh tế, đồng lòng bước vào thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.

Cùng với sự chuyển mình, phát triển mạnh mẽ của đất nước trong suốt 50 năm qua, văn học Việt Nam sau năm 1975 đến nay thu được nhiều thành tựu quan trọng.

1. Văn học Việt Nam sau năm 1975 tồn tại và phát triển trong một bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội mới. Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, toàn cầu hóa và kinh tế thị trường, sự bùng nổ của khoa học kỹ thuật, internet và truyền thông hiện đại tạo nên khuôn diện mới của thời đương đại. Đây là những yếu tố tác động sâu sắc đến đời sống xã hội, văn hóa và văn học Việt Nam.

Trong lĩnh vực sáng tác, sự đổi mới văn học bắt đầu từ sự tìm kiếm một ý thức mỹ học mới. Mỹ học thời chiến đã được thay thế bởi mỹ học thời bình, cái nhìn sử thi dần nhường chỗ cho cái nhìn thế sự - đời tư. Những quy phạm nghệ thuật cũ, những nhận thức cũ cần phải được thay thế bằng cái nhìn mới để thích ứng với sự chuyển động của thực tiễn. Kinh tế thị trường, đô thị hóa và nhịp sống đương đại đã cuốn con người vào vòng xoáy khốc liệt của nó, làm đảo lộn nhiều giá trị khiến không ít người đánh mất bản lĩnh, chạy theo lối sống thực dụng, sùng bái vật chất, vô cảm trước nỗi đau đồng loại. Con người dường như trở nên cô đơn hơn và luôn thấy mình bất an trước vô vàn mối quan hệ phức tạp, khó lường của thời hậu chiến. Những biến động này đã được nhiều cây bút nhạy bén nhất của văn học Việt Nam như: Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng... miêu tả một cách sắc nét vào những năm đầu thập niên 1980.

Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh (ngồi giữa) có nhiều thành tựu về sáng tác văn học từ sau năm 1975. Ảnh: THANH THƯ

Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh (ngồi giữa) có nhiều thành tựu về sáng tác văn học từ sau năm 1975. Ảnh: THANH THƯ

Bắt đầu từ năm 1986, với tinh thần “nhìn thẳng, nói thật”, nhiều cây bút đã thực hiện hàng loạt truy vấn, đối thoại trong trang viết của mình. Cao trào đổi mới văn học diễn ra vào giữa thập niên 1980 và tiếp tục được mở rộng về sau, chứng kiến sự xuất hiện của một đội ngũ cầm bút tài năng. Về văn xuôi có: Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Trường, Lê Minh Khuê, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương... Về thơ có: Dương Kiều Minh, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Quang Thiều, Trần Quang Quý, Trần Anh Thái, Inrasara... Về kịch là Lưu Quang Vũ, Xuân Trình...

Trong môi trường dân chủ xã hội được mở rộng, tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ được tôn trọng, văn học sau năm 1975 đã cố gắng miêu tả đời sống trong tính đa chiều với nhiều cách tân nghệ thuật táo bạo. Nhờ đó, văn học Việt Nam đương đại đa dạng về khuynh hướng và bút pháp, phong phú về phong cách và giọng điệu nghệ thuật. Việc đẩy mạnh giao lưu văn hóa quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ truyền thông hiện đại mở rộng cánh cửa cho nhiều trào lưu tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật hiện đại, hậu hiện đại của thế giới thâm nhập vào hệ sinh thái nghệ thuật Việt Nam, góp phần kích hoạt sự sáng tạo, đặc biệt là những cây bút ưa tìm tòi, thể nghiệm. Đáng chú ý là một số cây bút xuất sắc đã nhận được nhiều giải thưởng văn học quốc tế có uy tín. Thực tế ấy đặt ra một phân vân: Phải chăng, văn học Việt Nam đã xuất hiện những đỉnh cao nghệ thuật (dù hiếm hoi) nhưng chúng ta chưa nhận thấy hết giá trị đích thực và tầm vóc mỹ học toát lên từ những tác phẩm này?

Trong lĩnh vực lý luận, phê bình, ý thức đổi mới tư duy nghiên cứu và nỗ lực hiện đại hóa lý luận, phê bình giúp cho đời sống lý luận, phê bình có nhiều khởi sắc. Sự thay đổi nhãn quan khoa học, việc mở rộng tiêu chí đánh giá giá trị trên nền tảng nhân văn hiện đại giúp cho lý luận, phê bình dần thoát khỏi lối phê bình áp đặt, máy móc, giáo điều. Từ sau năm 1975, nhiều tư tưởng mỹ học và lý thuyết văn học hiện đại của phương Tây đã được dịch, giới thiệu, vận dụng một cách hiệu quả. Đây là những cú hích quan trọng để lý luận, phê bình văn học sau năm 1975, đặc biệt từ đổi mới đến nay có nhiều thay đổi, từng bước hội nhập với trình độ nghiên cứu văn học của khu vực và quốc tế.

2. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, đời sống văn học Việt Nam sau năm 1975 vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Trước hết, đó là thiếu tương xứng giữa lượng và chất. Số lượng xuất bản phẩm văn học, cả sáng tác và lý luận, phê bình rất phong phú về chủng loại nhưng còn khiêm tốn về chất lượng. Chúng ta chưa tạo được nhiều sản phẩm nghệ thuật ưu tú, những “bách khoa thư” đồ sộ đủ sức tái hiện một cách sinh động số phận và khát vọng của dân tộc trong tính sâu sắc, rộng lớn và kỳ vĩ. Vẫn còn không ít nhà văn quá say mê với cái tôi riêng tư nhỏ hẹp hoặc chạy theo những thời thượng nghệ thuật mà chưa dấn thân một cách quyết liệt để chạm tới lõi sâu của lịch sử, văn hóa và khát vọng của dân tộc để tạo nên những tác phẩm cao về tư tưởng, sâu về nghệ thuật.

Trong khi đó, mặt trái của kinh tế thị trường và sự phân hóa, biến đổi trong thị hiếu tiếp nhận có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống văn học. Đó là sự “dung dưỡng” cho khuynh hướng thương mại hóa và tạo môi trường cho văn học giải trí có điều kiện bùng nổ như nấm sau mưa. Phê bình cánh hẩu, thù tạc hay tô hồng tác phẩm một cách dễ dãi cũng chính là biểu hiện của tình trạng thương mại hóa trong lĩnh vực phê bình. Mặt khác, việc tiếp thu ảnh hưởng văn học, nghệ thuật hiện đại của thế giới là rất cần thiết để văn học Việt Nam nhanh chóng hội nhập với văn học nhân loại, nhưng lại xuất hiện một số khuynh hướng cực đoan trong tiếp nhận, thậm chí sính ngoại mù quáng.

3. Sau nửa thế kỷ nước nhà thống nhất, nền văn học Việt có những khởi sắc không thể phủ nhận. Thực tế cho thấy, nhân tố quan trọng nhất quyết định tầm vóc của một nền văn học là tài năng, tâm huyết của người cầm bút. Muốn mới, lạ, nhà văn phải vượt lên cái cũ để nhìn nhận đời sống từ mỹ học của cái khác. Hơn nữa, trong đời sống nghệ thuật đương đại, cần nhìn thấy rõ hơn sự tương tác giữa viết và đọc, giữa sáng tạo và tiếp nhận vì tiếp nhận cũng cần đến sự đổi mới về trình độ thưởng lãm nghệ thuật để nhận thấy và mở lòng trước những cách tân. Đúng hơn, nhà văn lớn cần đến người đọc lớn và người đọc lớn đòi hỏi phải có nhà văn lớn tương ứng. Đó là chiều sâu của tư duy đối thoại và sự vận hành của đời sống văn học, nghệ thuật đương đại.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, cần tăng cường mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế để đưa văn học Việt Nam nhanh chóng bắt kịp tư duy, nhịp điệu của nghệ thuật hiện đại thế giới. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, giao lưu văn hóa là con đường hiệu quả để hiện đại hóa văn học. Tuy nhiên, tiếp nhận văn hóa nhân loại khác với mô phỏng, bắt chước một cách thụ động. Các nhà văn rất cần hình thành bộ lọc văn hóa chủ động, tiếp nhận một cách hợp lý, gắn tiếp nhận với tiếp biến, từ đó mở ra những sinh lộ sáng tạo mới.

Có thể nói rằng, sự phát triển của lý luận, phê bình văn học vì lý luận, phê bình chính là sự tự ý thức của văn học về chính nó. Do đó, lý luận, phê bình văn học phải nhanh chóng cập nhật trình độ nghiên cứu hiện đại của thế giới, tích cực đổi mới phương pháp nghiên cứu, vừa chú trọng phát triển nghiên cứu chuyên ngành vừa mở rộng nghiên cứu liên ngành. Đồng thời quan tâm nghiên cứu, bổ sung, phát triển di sản lý luận, phê bình mác-xít và mỹ học truyền thống nhằm tạo nên sự tích hợp các nguồn năng lượng tri thức văn hóa. Để có được sự phát triển đúng đắn, lành mạnh, văn học đương đại cần có một đội ngũ quản lý văn học, nghệ thuật tinh thông nghề nghiệp, xứng đáng là “bà đỡ” cho những giá trị nghệ thuật mới ra đời.

PGS, TS NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP - Chủ tịch Hội đồng Lý luận phê bình, Hội Nhà văn Việt Nam

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/bao-xuan-at-ty-2025/van-hoc-viet-dong-hanh-voi-dan-toc-va-khat-vong-cua-nhan-dan-812890
Zalo