Văn chương Nguyễn Quang Sáng mang đậm phong vị Nam Bộ
Kỷ niệm 10 năm nhà văn Nguyễn Quang Sáng qua đời, Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh tổ chức một hội thảo nhìn lại sự nghiệp sáng tạo của nhân vật văn chương nổi tiếng bậc nhất Nam Bộ này, vào ngày 6/12. Đây cũng là dịp để công chúng nhận diện rõ hơn đóng góp của nhà văn Nguyễn Quang Sáng với nền văn học nước nhà.
Nhà văn Bích Ngân - Chủ tịch Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh cho rằng, đã 10 năm vắng bóng nhà văn Nguyễn Quang Sáng trên đời sống dương gian, nhưng ông chưa bao giờ vắng mặt trong đời sống văn học. Bởi lẽ, tác phẩm của ông vẫn tiếp tục được đọc lại, được ngẫm lại với tất cả sự trân trọng của công chúng và đồng nghiệp. Nguyễn Quang Sáng không chỉ là một “con chim vàng” của văn học Nam Bộ mà còn là một mục từ cá tính trong từ điển văn học Việt Nam.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng từng đảm nhận cương vị Chủ tịch Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh từ khi thành lập năm 1981 đến năm 2000 và làm Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam khóa 4. Tuy nhiên, ông chưa bao giờ tồn tại trong mắt đồng nghiệp và độc giả như một nhân vật quản lý văn nghệ, mà ông đích thực là một nhà văn chinh phục người khác bằng chính trang viết của mình.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đi qua làng văn bằng một cái dáng thấp đậm, vừa gần gũi chan hòa vừa nghiêng ngả phóng túng. Chính tính cách Nguyễn Quang Sáng làm phong phú thêm hương vị cho tác phẩm Nguyễn Quang Sáng. Công chúng thân quen thường lấy lối sống Nguyễn Quang Sáng mà soi vào trang viết Nguyễn Quang Sáng để thấy được những màu sắc lấp lánh khác nhau. Tuy nhiên, khi bình tâm đọc văn Nguyễn Quang Sáng thật khách quan, thì không thể nào phủ nhận ông luôn biết cách tìm kiếm những chi tiết nhỏ để vun đắp một cuộc đời lớn!
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng chọn bút pháp phản ánh hiện thực xuyên suốt hành trình sáng tạo. Trí tưởng tượng đối với ông giống như một món hàng xa xỉ, vì ông tích cực lặn ngụp trong dòng chảy đa dạng và bất tận của đời thường. Nhánh sông Tiền chảy qua ngôi nhà chôn nhau cắt rốn của ông không chỉ xuất hiện trong truyện dài thiếu nhi “Dòng sông thơ ấu” mà liên tục cồn cào sóng gió trong nhiều tác phẩm của ông. Vui buồn quê nhà dắt Nguyễn Quang Sáng vào văn chương bằng truyện ngắn đầu tay “Con chim vàng” viết tháng 6/1956 với bối cảnh hoài niệm “Cây trứng cá trước sân nhà đã hết mùa, sâu đo xanh đỏ thoăn thoắt qua những cành lá li ti màu phấn mốc…”. Nghĩa là, nhà văn Nam Bộ Nguyễn Quang Sáng khởi nghiệp trong âm vang văn hóa sông Hồng!
22 tuổi, tập kết ra Bắc, Nguyễn Quang Sáng chỉ có một ưu điểm là đánh bóng bàn rất giỏi. Thế nhưng, khi cư ngụ ở ngôi nhà số 2 phố Cổ Tân - Hà Nội, Nguyễn Quang Sáng đã bái vọng quê nhà bằng hai tiểu thuyết “Nhật ký người ở lại” viết năm 1961 và “Đất lửa” viết năm 1963. Vì sao khẳng định như vậy? Vì bối cảnh của cả hai tiểu thuyết đều là xứ sở mà Nguyễn Quang Sáng từng sinh ra và lớn lên. Nhân vật Quang trong “Nhật ký người ở lại” sau giây phút bịn rịn tiễn những đồng chí đi tập kết đã quay về làng Mỹ Hưng hoạt động cách mạng và hy sinh oanh liệt. Nhân vật Sáu Sỏi trong “Đất lửa” cũng trở lại làng Mỹ Long Hưng vận động tín đồ Hòa Hảo đoàn kết đánh Pháp. Làng Mỹ Hưng của “Nhật ký người ở lại” và làng Mỹ Long Hưng trong “Đất lửa” đều lấy nguyên mẫu từ xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang mà Nguyễn Quang Sáng đã cất tiếng khóc chào đời ngày 12/1/1932.
14 tuổi, Nguyễn Quang Sáng thoát ly theo cách mạng và được học ở Trường trung học chiến khu Nguyễn Văn Tố trong rừng U Minh. Tuy nhiên, nền tảng viết văn của Nguyễn Quang Sáng đều học ở thực tế, thực tế tranh đấu và thực tế xã hội. Những tác phẩm tiêu biểu như “Ông Năm Hạng”, “Tư Quắn”, “Quán rượu người câm” thời khói lửa và “Bàn thờ tổ của một cô đào”, “Người đàn bà đức hạnh”, “Về lại bức tranh xưa” thời hòa bình, đều được Nguyễn Quang Sáng chưng cất từ thực tế trải nghiệm sinh động. Hầu như toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng không câu nệ vào sách vở và tuyệt đối vắng bóng điển tích. Nguyễn Quang Sáng trực tiếp va đập với cuộc sống để nhìn, để nghe và để viết. Chỉ cần gạn lọc được chi tiết, thì Nguyễn Quang Sáng lập tức có những trang văn trần thuật hấp dẫn, như ông bộc bạch “Tôi mê chi tiết. Viết văn không chi tiết, chỉ nói như xã luận, thì còn ra gì”.
Sự khắc nghiệt của thời gian chắc chắn làm mai một nhiều giá trị mang thông điệp minh họa cho một giai đoạn văn chương nào đó. Thế nhưng, Nguyễn Quang Sáng nhờ vào thực tế kháng chiến của quân dân Nam bộ, đã có được truyện ngắn “Chiếc lược ngà” xuất sắc. Đầu năm 1965, Nguyễn Quang Sáng vượt Trường Sơn vào Căn cứ trung ương cục miền Nam, thì tháng 9/1966 ông viết được “Chiếc lược ngà”. Cùng với “Chiếc lược ngà”, Nguyễn Quang Sáng có một tác phẩm nữa viết ở chiến khu Tân Biên cần phải nhắc đến, là truyện ngắn “Chị Nhung”. Ngay trong đợt 1 của cuộc nổi dậy Mậu Thân, Nguyễn Quang Sáng và Lê Văn Thảo là hai nhà văn được trực tiếp tham gia. Ngoài vài bút ký, truyện ngắn “Chị Nhung” là thu hoạch của Nguyễn Quang Sáng từ thực tế khốc liệt tấn công vào đô thị Sài Gòn.
“Chiếc lược ngà” và “Chị Nhung” khá giống nhau về môtip. Nếu “Chiếc lược ngà” được kể bởi một đồng chí già, thì “Chị Nhung” được kể bởi chính trị viên tiểu đoàn Tám Sơn. Thu trong “Chiếc lược ngà” xuất hiện với hình ảnh một cô bé bơ vơ và một nữ giao liên gan dạ, thì Nhung trong “Chị Nhung” cũng xuất hiện với hình ảnh một cô bé đơn côi và một nữ giao liên can trường. Nếu như Thu đưa cán bộ qua sông an toàn “cô vừa chặn địch, vừa bước ra khỏi chỗ nguy hiểm mà mặt cứ phơi phới… Con gái hai mươi tuổi không thể có cặp mắt trong sáng như thế, và cô mới ngây thơ làm sao, cô vẫn còn đeo bông tòn ten, cô đi dần về phía tôi…”, thì Nhung mở đường cho bộ đội rút lui “trong trận đánh vào Bộ tổng tham mưu của Mỹ - Ngụy, lúc đánh trả lại các đợt phản kích của xe tăng địch, có một chiến sĩ bắn B.40 thọc họng súng qua các cửa sổ bắn đến viên đạn thứ mười sáu. Thấy hai bên tai anh rỉ máu, một chị chạy đến không cho anh bắn nữa. Chị giật súng trên tay anh và bắn tiếp. Nghe nói chị ấy cũng tên Nhung. Tôi muốn gặp chị để hỏi lại những chuyện ấy cho rõ hơn và do tính tò mò, tôi muốn gặp tận mắt một cô gái người Sài Gòn”.
Truyện ngắn “Chị Nhung” viết sau truyện ngắn “Chiếc lược ngà” khoảng 2 năm, yếu tố lịch sử của “Chị Nhung” cụ thể hơn “Chiếc lược ngà”, nhưng tính cách nhân vật nữ và cảm hứng sáng tác rất giống nhau. Nét độc đáo là nhà văn Nguyễn Quang Sáng đều khắc khoải được sẻ chia niềm che chở của tình phụ tử cho Thu và Nhung, vì hai cô bé đều có cha biền biệt kháng chiến.
Trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là sự bồi hồi “Lúc chia tay, tôi không nghe cháu gọi tôi là ba. Nhưng những lúc nằm một mình, nhớ lại thì tôi nghe tiếng gọi “ba” của cháu, và tiếng “ba” như vang lên từ trong tâm tôi”, còn trong truyện ngắn “Chị Nhung” là sự xao xuyến “Bây giờ tôi thấy mình như một người cha đứng trước một đứa con. Tôi bước lại gần cháu, đưa tay vỗ nhẹ lên vai cháu…”.
Ngoài ra, nhà văn Nguyễn Quang Sáng còn có chút riêng tư dành cho Thu và Nhung, khi ông cố ý dời “hộ khẩu” cả hai nhân vật được thai nghén ngẫu nhiên ấy, cùng về quê nhà An Giang của ông. Nhân vật Thu thì nguyên quán “Cù lao Giêng, quận Chợ Mới, tỉnh Long Châu Sa”, còn nhân vật Nhung thì “cháu là người Tân Phú Đông, tỉnh Long Châu Sa”. Có lẽ, cần ghi chú thêm rằng, tỉnh An Giang có lúc chuyển đổi thành tỉnh Long Châu Sa, là địa danh hành chính gộp lại của Long Xuyên, Châu Đốc và Sa Đéc. Rõ ràng, nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một người con nặng lòng với cội nguồn.
Tại cuộc hội thảo tưởng niệm 10 năm nhà văn Nguyễn Quang Sáng qua đời, hầu hết ý kiến đều khẳng định sở trường của ông nằm ở thể loại truyện ngắn. Bước vào thế giới truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, độc giả được bắt gặp những con người bình dị và lam lũ, mà tình cảm thật phong phú và sức sống thật phi thường. Thậm chí, trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng, có nhiều số phận cay đắng và bẽ bàng vẫn lấp lánh ánh sáng của tin yêu và khát vọng.
Ông nhìn ra vẻ đẹp bất ngờ ẩn giấu bên trong những con người nhỏ bé và lầm lũi. Họ chịu đựng những thiệt thòi một cách nhẹ nhàng, họ gánh vác những mất mát một cách ung dung để họ được làm chủ chính mình, được cống hiến cho quê hương. Thông qua nhân vật đa dạng, nhà văn Nguyễn Quang Sáng không cao giọng rao giảng một sứ mệnh hay một thông điệp gì, mà mỗi tình huống, mỗi hành vi, mỗi lời nói từ các nhân vật tự bật ra giá trị cốt lõi của tinh thần nhân văn cao cả.