Ứng dụng chuyển đổi số thúc đẩy hiệu quả ngành thủy lợi
Ngày 17/10, tại Thành phố Hồ Chí Minh, thực hiện chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi và Báo Nông nghiệp và Môi trường đã phối hợp tổ chức diễn đàn 'Khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong quản lý, vận hành công trình thủy lợi thực hiện theo Nghị quyết 57'.

Toàn cảnh diễn đàn.
Trao đổi tại diễn đàn, ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cho rằng, trước hết, cần tăng cường năng lực và nhận thức về chuyển đổi số trong toàn ngành; nâng cao độ tin cậy và tính chính xác của công tác dự báo, nhất là trong biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp.
Việc ứng dụng công nghệ vào hệ thống công trình như SCADA hay các hệ thống đóng, mở cống tự động cần đi đôi với công tác vận hành, quản lý để bảo đảm khả năng chống chịu và thích ứng với thiên tai.
Cũng theo ông Phong, đầu tư phát triển thủy lợi thông minh phải gắn với mục tiêu đa chức năng: phục vụ sản xuất nông nghiệp, cấp nước sinh hoạt, phòng, chống thiên tai và bảo vệ môi trường. Quá trình này không chỉ dừng ở đầu tư ban đầu mà còn phải được duy trì sau đầu tư, bảo đảm tính đồng bộ và hiệu quả.
Ông Nguyễn Tùng Phong nhấn mạnh: “trong thời gian tới, Cục sẽ phối hợp với Cục Chuyển đổi số xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hoàn thiện cơ sở dữ liệu đầy đủ, chính xác và sẵn sàng chia sẻ hai chiều giữa Trung ương và địa phương. Bên cạnh đó, các ngành, các cấp và địa phương cần phối hợp đồng bộ để hình thành hệ thống thủy lợi thông minh, thích ứng và phát triển bền vững trong thời đại số”.
Tại diễn đàn, các đại biểu đã cùng nhau trao đổi, đánh giá và chia sẻ các mô hình, giải pháp ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, trong công tác quản lý, điều hành, khai thác và cung cấp dịch vụ thủy lợi, hướng tới mục tiêu hiện đại hóa ngành, bảo đảm an ninh nguồn nước và thích ứng với biến đổi khí hậu theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Thay đổi tư duy, ứng dụng mạnh mẽ khoa học-công nghệ
Theo chia sẻ của các đại biểu, thời gian qua, hệ thống công trình thủy lợi luôn giữ vai trò trụ cột trong phát triển nông nghiệp, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tuy nhiên, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, cộng với nhu cầu sử dụng nước ngày càng gia tăng, để phát huy tối đa hiệu quả của các công trình thủy lợi thì việc quản lý, vận hành công trình cần được thực hiện theo hướng hiện đại, an toàn, linh hoạt. Điều này đòi hỏi phải dựa trên cơ sở đổi mới tư duy và ứng dụng mạnh mẽ khoa học-công nghệ.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý khai thác dịch vụ thủy lợi Thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị tiên phong trong việc ứng dụng khoa học công nghệ vào quản lý, khai thác và cung cấp sản phẩm, dịch vụ thủy lợi. Phát biểu tại diễn đàn, ông Nguyễn Văn Đam, Giám đốc công ty cho biết, từ nền tảng ứng dụng tin học trong thập niên 1990, công ty đã phát triển mạnh mẽ hệ thống quản lý hiện đại dựa trên công nghệ SCADA, IoT và chuyển đổi số.
Hiện nay, công ty vận hành hơn 60 trạm SCADA, 50 camera giám sát, 10 trạm quan trắc chất lượng nước và 2 trung tâm điều hành tích hợp, góp phần giám sát và vận hành công trình thủy lợi chính xác, kịp thời. Bên cạnh đó, công ty đã xây dựng phần mềm quản lý tài sản, tính toán nhu cầu sử dụng nước, cơ sở dữ liệu GIS, ứng dụng quản lý tưới trực tuyến, và văn phòng điện tử, giúp nâng cao hiệu quả quản trị và tiết kiệm nguồn nước đến 30%. Ngoài ra, công ty tư thiết bị công nghệ như máy vớt rác, flycam, và phòng thí nghiệm nước để hỗ trợ công tác vận hành.

Ông Nguyễn Văn Đam, Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quản lý khai thác dịch vụ thủy lợi Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ tại diễn đàn.
Ông Đam cho rằng, nhờ ứng dụng các giải pháp công nghệ, hiệu quả cung cấp nước sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng, đồng thời góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, phòng chống triều cường và thiên tai. Trong thời gian tới, Công ty định hướng hoàn thiện hệ thống SCADA, ứng dụng AI trong điều hành và kết nối dữ liệu vào chương trình chuyển đổi số chung của thành phố.
Cùng với đó, ông cũng nhấn mạnh tới việc đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, kiến thức chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ, nhân viên vận hành hệ thống SCADA nhằm đáp ứng yêu cầu của thời đại công nghiệp 4.0. Ông Đam đề nghị các cơ quan bộ, ngành và chính quyền thành phố tiếp tục quan tâm, ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư cho chuyển đổi số và ứng dụng khoa học-công nghệ trong lĩnh vực thủy lợi; cần có chiến lược khung về chuyển đổi số toàn ngành để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ và hiệu quả trong triển khai.
Tại diễn đàn, các đại biểu còn chia sẻ về ứng dụng công nghệ trong dự báo nguồn nước và xâm nhập mặn phục vụ lập kế hoạch vận hành hiệu quả; phát triển mạng lưới giám sát thông minh hỗ trợ canh tác thích ứng biến đổi khí hậu; công cụ AI tự động thu thập, chuẩn hóa dữ liệu nguồn nước phục vụ xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung. Bên cạnh đó, các đại biểu cũng kiến nghị một số khó khăn hiện nay khi muốn ứng dụng khoa học-công nghệ vào thực tiễn.
Ông Nguyễn Thanh Tùng, Chi Cục trưởng Chi cục Thủy lợi Cà Mau, cho biết, để ứng dụng chuyển đổi số, tỉnh đã thành lập Trung tâm Quan trắc, tích hợp dữ liệu từ các lĩnh vực thủy lợi và thủy sản, hướng tới xây dựng hệ thống xử lý và sử dụng dữ liệu dùng chung toàn ngành. Tuy nhiên, trong quá trình vận hành, địa phương gặp nhiều khó khăn do sự không tương thích giữa các thiết bị.

Tại diễn đàn, nhiều ý kiến của các nhà khoa học, đại diện cơ quan chức năng và các doanh nghiệp, đơn vị được chia sẻ.
“Một số thiết bị do các tổ chức quốc tế tài trợ sau một thời gian sử dụng đã xuống cấp, hư hỏng đầu dò, buộc phải nhập khẩu linh kiện thay thế với chi phí bảo trì cao. Ngoài ra, sự khác biệt giữa thiết bị trong nước và quốc tế khiến việc đồng bộ, tích hợp dữ liệu gặp nhiều trở ngại. Để hệ thống vận hành ổn định, nhiều hạng mục buộc phải thay thế hoàn toàn bằng thiết bị ngoại, làm tăng đáng kể chi phí đầu tư. Dữ liệu từ các trạm quan trắc này truyền về máy chủ đặt ở nước ngoài, gây khó khăn cho công tác quản lý, khai thác và chủ động điều hành tại địa phương”, ông Tùng phân tích.
Ông Mai Hồng Tâm, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi thành phố Cần Thơ cho biết, sau khi sáp nhập các tỉnh Cần Thơ, Hậu Giang và Sóc Trăng, khu vực này có hệ thống công trình thủy lợi khá lớn, đa dạng về loại hình, từ hồ chứa, kênh mương đến cống, trạm bơm và hệ thống tiêu thoát nước đô thị. Tuy nhiên, nhìn chung việc ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số trong quản lý, vận hành công trình thủy lợi trên địa bàn thành phố còn nhỏ lẻ, thiếu tính đồng bộ.
Hiện Cần Thơ có một số dự án nổi bật như dự án chống ngập đô thị trung tâm, bước đầu đã phát huy hiệu quả trong kiểm soát ngập úng, điều tiết dòng chảy. Song theo ông Tâm, thiết bị phục vụ chuyển đổi số trong công tác vận hành vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Ông kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường đặt hàng, giao cho các viện, trường và doanh nghiệp nghiên cứu, chế tạo thiết bị phù hợp, đồng thời đề nghị bộ xem xét cơ chế để các địa phương tranh thủ nhiều nguồn kinh phí hơn cho triển khai chuyển đổi số trong lĩnh vực thủy lợi.
Trao đổi tại diễn đàn, ông Nguyễn Tùng Phong, Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi cho rằng, trước hết, cần tăng cường năng lực và nhận thức về chuyển đổi số trong toàn ngành; nâng cao độ tin cậy và tính chính xác của công tác dự báo, nhất là trong biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp. Việc ứng dụng công nghệ vào hệ thống công trình như SCADA hay các hệ thống đóng, mở cống tự động cần đi đôi với công tác vận hành, quản lý để đảm bảo khả năng chống chịu và thích ứng với thiên tai.
Cũng theo ông Phong, đầu tư phát triển thủy lợi thông minh phải gắn với mục tiêu đa chức năng: phục vụ sản xuất nông nghiệp, cấp nước sinh hoạt, phòng chống thiên tai và bảo vệ môi trường. Quá trình này không chỉ dừng ở đầu tư ban đầu mà còn phải được duy trì sau đầu tư, bảo đảm tính đồng bộ và hiệu quả.
Ông Nguyễn Tùng Phong nhấn mạnh: “trong thời gian tới, cục sẽ phối hợp với Cục Chuyển đổi số xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, hoàn thiện cơ sở dữ liệu đầy đủ, chính xác và sẵn sàng chia sẻ hai chiều giữa trung ương và địa phương. Bên cạnh đó, các ngành, các cấp và địa phương cần phối hợp đồng bộ để hình thành hệ thống thủy lợi thông minh, thích ứng và phát triển bền vững trong thời đại số”.