Tỷ giá, lãi suất và kỳ vọng thuế quan Mỹ
'Nếu đạt được thỏa thuận khả quan, doanh nghiệp vẫn có thể nỗ lực để sản xuất và xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ. Khi đó, mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao và phân bổ tín dụng bền vững hơn sẽ khả thi hơn', PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân, Đại học Kinh tế TPHCM, trao đổi với Kinh tế Sài Gòn.

Nếu đạt được thỏa thuận khả quan, doanh nghiệp vẫn có thể nỗ lực để sản xuất và xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ. Ảnh: TL
Lãi suất thấp, tỷ giá vẫn căng thẳng
KTSG: Thưa ông, tỷ giá trung tâm đô la Mỹ/tiền đồng đã liên tục tăng từ đầu tháng 6-2025, duy trì xu hướng tăng từ đầu năm 2025, trái ngược với xu hướng giảm của lãi suất liên ngân hàng. Tuy nhiên, mới đây, nhiều ngân hàng đã tăng lãi suất huy động. Ông đánh giá như thế nào về những thông tin này?

PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân, Đại học Kinh tế TPHCM. Ảnh: TL
- PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân: Đầu tiên là vấn đề tỷ giá. Ngay từ đầu năm, Chính phủ đã đưa ra vấn đề hy sinh một phần lạm phát để đạt mục tiêu tăng trưởng cao. Các nhà điều hành chính sách tiền tệ, vì thế, phải đảm bảo duy trì được một mặt bằng lãi suất thấp ổn định trong thời gian dài. Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương Mỹ, châu Âu, Nhật Bản... đều neo lãi suất ở mức cao để đối phó lạm phát, và ngay cả khi các nước châu Âu, Nhật Bản đã dần hạ lãi suất, từ đầu năm 2025, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) vẫn chưa tiến hành đợt cắt giảm lãi suất nào. Sự chênh lệch giữa lãi suất tiền đồng và đô la Mỹ khiến dòng vốn có xu hướng rút ra, gây áp lực lên tỷ giá.
Bên cạnh đó, chính sách thuế quan của Tổng thống Mỹ Donald Trump đã có những tác động trực tiếp tới xuất khẩu của Việt Nam. Dù xuất khẩu đạt được mức tăng trưởng hai con số trong quí 1-2025 nhưng triển vọng của quí 2-2025 có thể sẽ không được tích cực như vậy khi chỉ số Các nhà quản trị mua hàng (PMI) trong hai tháng 4 và 5-2025 đều dưới 50 điểm. Những căng thẳng địa chính trị, đặc biệt là xung đột mới giữa Israel và Iran có thể có tác động nhất định tới giá vàng, giá dầu, chỉ số Dollar Index (DXY) và lâu dài hơn là vấn đề xuất khẩu. Tất cả những điều này góp phần khiến tỷ giá đô la Mỹ/tiền đồng neo ở mức cao ngay từ đầu năm và tiếp tục giữ xu hướng này.
Về lãi suất huy động, dù lãi suất liên ngân hàng có xu hướng giảm, giúp ngân hàng thương mại có điều kiện cung ứng tiền vốn giá rẻ cho doanh nghiệp, ngân hàng thương mại vẫn phụ thuộc lớn vào nguồn huy động từ người dân, đặc biệt khi tiền gửi từ các tổ chức kinh tế đã bắt đầu giảm. Do tổng lượng huy động tiền gửi từ khách hàng cá nhân của hệ thống ngân hàng thương mại vẫn tích cực, việc tăng lãi suất huy động chủ yếu nhắm đến mục tiêu giữ chân khách hàng. Chính vì vậy, mức lãi suất huy động chỉ nhích nhẹ, chủ yếu ở kỳ hạn dài và áp dụng với số tiền gửi lớn, mặt bằng lãi suất nhìn chung duy trì ở mức thấp.
KTSG: Một biến số lớn trong vấn đề tỷ giá và lãi suất là chính sách thuế quan của Mỹ, với mức thuế đối ứng chính thức với Việt Nam có thể được công bố vào ngày 9-7 tới đây, sau khi kết thúc thời gian 90 ngày tạm hoãn. Chúng ta nên hình dung những kịch bản nào có thể xảy ra và chúng sẽ tác động tới vấn đề tỷ giá và lãi suất như thế nào? Ông dự báo như thế nào về những diễn biến của tỷ giá và lãi suất trong sáu tháng cuối năm 2025?
- Mức thuế quan sắp tới là một vấn đề rất đáng lưu tâm. Trong kịch bản Mỹ áp thuế 46% với hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam, chúng ta sẽ gặp bất lợi lớn. Những doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang đầu tư chắc chắn sẽ cân nhắc rút vốn. Dòng vốn FDI mới sẽ không chảy vào mà tìm đến các quốc gia được hưởng mức thuế quan thấp hơn hoặc họ sẽ cân nhắc đứng ngoài để theo dõi thêm các động thái từ chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump. Dòng giải ngân FDI và ngoại tệ thu được từ xuất khẩu đều giảm sút và tương đối khó phục hồi, cán cân thanh toán sẽ bị sụt giảm, tỷ giá chịu tác động tiêu cực trong trung hạn và dài hạn, chứ không chỉ trong ngắn hạn.
Muốn tái cấu trúc thị trường vốn, chúng ta phải nhìn về chặng đường nhiều năm. Quan trọng nhất, việc cung ứng vốn phải đem lại hiệu quả, nghĩa là phải đảm bảo được tỷ lệ tổng cung tiền M2/GDP thông qua tất cả các kênh nằm ở ngưỡng phù hợp.
Dù vậy, tôi vẫn nghiêng về khả năng Việt Nam đàm phán được một mức thuế quan mà hai bên đều có thể chấp nhận được. Đó là mức 20-25%, bằng một nửa mức ông Donald Trump tuyên bố. Tất nhiên, kể cả đạt được mức thuế này, hàng hóa Việt Nam cũng phải chịu thuế nhập khẩu cao hơn Philippines (18%), Malaysia (24%) và hai nước này có thể đàm phán xuống mức thuế quan thấp hơn. Thái Lan và Indonesia dự kiến bị áp thuế lần lượt 37% và 32%, và hai quốc gia này cũng sẽ tích cực đàm phán để giảm tới mức thuế suất thấp nhất có thể. Ấn Độ dự kiến chịu mức thuế 26% và đang đàm phán tích cực để trở lại mức rất thấp. Do đó, kể cả đạt được mức thuế này, Việt Nam vẫn chịu những ảnh hưởng nhất định, dù nhiều khả năng, hàng hóa từ Việt Nam vẫn duy trì được sức cạnh tranh tương đối so với hàng hóa từ công xưởng sản xuất của thế giới là Trung Quốc. Đây là một kịch bản tương đối hài hòa, không tốt nhưng không quá xấu.
Quan trọng và cần quan tâm hơn là chúng ta phải xem mức thuế quan này là áp lực và động lực để chủ động hơn, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng hàng hóa xuất khẩu chiến lược. Trên thực tế, trong 120 tỉ đô la hàng hóa xuất khẩu tới Mỹ dự kiến bị đánh thuế, ba nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác; hàng dệt, may đã chiếm tới 51,4% tổng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ năm 2024. Tiếp đến là điện thoại các loại và linh kiện; gỗ và sản phẩm gỗ; giày dép các loại... Đó đều là những nhóm hàng doanh nghiệp FDI đang chiếm ưu thế lớn hoặc Việt Nam phải nhập khẩu nguyên liệu, phụ kiện chủ yếu từ nước ngoài, dẫn đầu là Trung Quốc. Việt Nam phải chủ động xây dựng nguồn cung nguyên vật liệu, phụ kiện trong nước, từ đó gia tăng giá trị và tránh những rủi ro tương tự trong tương lai.
Về diễn biến tỷ giá, lãi suất trong sáu tháng cuối năm 2025, lãi suất vẫn tiếp tục đi ngang để ủng hộ cho tăng trưởng kinh tế. Tỷ giá sẽ tăng do bất ổn địa chính trị toàn cầu, áp lực của thuế quan. Các nhà phân tích đang dự đoán Fed sẽ tiến hành hai đợt cắt giảm lãi suất trong năm 2025, tuy vậy, với diễn biến mới tại Trung Đông, khả năng này có lẽ sẽ phải xem xét lại. Nhìn chung, nếu Fed cắt giảm lãi suất, áp lực tỷ giá đô la Mỹ/tiền đồng cũng phần nào được giảm bớt.
Tái cơ cấu thị trường vốn cần nhiều năm
KTSG: Từ phía tăng trưởng tín dụng, theo Công ty Chứng khoán MB, tính đến ngày 16-6-2025 tín dụng đã tăng 6,99% so với đầu năm, cao hơn so với mức 3,75% cùng kỳ năm ngoái. Ông từng nhận định, mấu chốt để đạt tăng trưởng tín dụng 16% như chỉ tiêu đặt ra đầu năm nằm ở cầu tín dụng chứ không nằm ở nguồn cung. Vậy tính tới thời điểm này, vấn đề về cầu tín dụng đã thực sự được cơ cấu theo hướng hợp lý, hướng tới tăng trưởng cao và bền vững chưa? Vấn đề nợ xấu đang được ghi nhận gia tăng cần được xem xét và xử lý như thế nào? Xin ông phân tích cụ thể.
- Dòng vốn hiện nay đã đồng đều hơn trước, hướng vào khu vực sản xuất kinh doanh. Các nhà điều hành đã có những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận tín dụng, đồng thời, thiết kế phương thức kiểm soát dòng vốn đi vào thị trường bất động sản một cách hợp lý hơn. Tăng trưởng tín dụng đã thể hiện tín hiệu tích cực nhưng chúng ta vẫn phải chờ đợi kết quả đàm phán thuế quan với Mỹ để đoán định tình hình sáu tháng cuối năm. Nếu đạt được thỏa thuận khả quan, doanh nghiệp vẫn có thể nỗ lực để sản xuất và xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ. Khi đó, mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao và phân bổ tín dụng bền vững hơn sẽ khả thi hơn.
Trong câu chuyện nợ xấu ngân hàng gia tăng, theo Báo cáo Cập nhật ngành ngân hàng quí 1-2025(1), quy mô nợ xấu tăng 18,5 % so với cùng kỳ năm trước và 15,4% so với quí trước. Chi phí dự phòng chỉ tăng nhẹ khiến tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm xuống mức thấp nhất trong hai năm qua.
Nguyên nhân khách quan đến từ sức khỏe của nền kinh tế, nói cách khác, kinh tế khó khăn thì nợ xấu cũng gia tăng. Nguyên nhân chủ quan là Thông tư 02/2023 đã chính thức hết hiệu lực, nợ xấu ngoại bảng bị chuyển thành nợ xấu nội bảng.
Đáng nói, thách thức của doanh nghiệp Việt Nam không chỉ đến từ các biến động bên ngoài mà còn đến từ bên trong. Tiêu dùng nội địa đang yếu, việc áp dụng một số chính sách về ngăn ngừa hàng giả, yêu cầu hộ kinh doanh kê khai thuế, hướng tới bỏ thuế khoán... đều rất đúng đắn nhưng đã ít nhiều gây ra tác động có tính ngắn hạn đến tiêu dùng và hoạt động của doanh nghiệp.
Trong bối cảnh này, Ngân hàng Nhà nước có thể yêu cầu các ngân hàng thương mại thực hiện các checklist độ căng thẳng tài chính hiện tại, để dự đoán, phòng ngừa và đưa ra các giải pháp ứng phó với các kịch bản xấu khiến rủi ro nợ xấu gia tăng, tác động tiêu cực tới toàn nền kinh tế.
KTSG: Trong phần trả lời chất vấn Quốc hội mới đây, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng đã thẳng thắn, dư nợ tín dụng/GDP cuối năm 2024 đã lên tới mức 134%, nếu tiếp tục tăng sẽ tiềm ẩn rủi ro cho hệ thống ngân hàng và gây hệ lụy cho nền kinh tế. Vấn đề này cần được nhìn nhận như thế nào? Có hợp lý không nếu chúng ta muốn mở rộng cơ cấu nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế, trong khi vẫn đang điều hành dựa trên mục tiêu tăng trưởng tín dụng và thực trạng này cần được điều chỉnh ra sao?
- Trên thực tế, các định chế tài chính lớn trên thế giới như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) hay Ngân hàng Thế giới (WB) đều từng đưa ra cảnh báo về dư nợ tín dụng Việt Nam tăng trưởng quá cao, đặc biệt là trong vài năm trở lại đây. Chúng ta cần phải xem lại hai vấn đề, thứ nhất, tăng trưởng cung tiền có tương xứng với mức tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, việc nền kinh tế phụ thuộc gần như hoàn toàn vào tín dụng ngân hàng cần phải được điều chỉnh.
Cái khó nằm ở chỗ các kênh huy động vốn của doanh nghiệp hiện giờ chủ yếu từ ngân hàng thương mại bởi lẽ như chúng ta đều thấy, thị trường chứng khoán chưa phát huy đúng vai trò, trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng vẫn đang là nhóm phát hành lớn nhất. Vì thế, mục tiêu tăng trưởng tín dụng đang tương đồng với mức tăng trưởng cung tiền (M2) cho nền kinh tế. Chúng ta cần phải có giải pháp thúc đẩy thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường vốn, để giảm áp lực cho kênh ngân hàng trong thời gian tới.
Tuy nhiên, muốn tái cấu trúc thị trường vốn, chúng ta phải nhìn về chặng đường nhiều năm. Quan trọng nhất, việc cung ứng vốn phải đem lại hiệu quả, nghĩa là phải đảm bảo được tỷ lệ tổng cung tiền M2/GDP thông qua tất cả các kênh nằm ở ngưỡng phù hợp.
(1) https://wichart.vn/research-report/bao-cao-cap-nhat-nganh-ngan-hang-quy-12025