Tư tưởng cách mạng tỏa sáng trên từng trang báo!

Báo Thanh niên ra đời (21/6/1925), như tên gọi, ngoài nghĩa từ vựng chỉ những người tuổi trẻ, gợi về những điều tốt đẹp: niềm tin, tương lai, hy vọng, ý chí và nghị lực… còn cho thấy tư tưởng, quan niệm của Nguyễn Ái Quốc coi thanh niên là lực lượng nòng cốt, chủ yếu của cách mạng. Đồng thời xác định đối tượng, nội dung tuyên truyền của tờ báo này cũng chủ yếu hướng về tầng lớp thanh niên.

Tư tưởng này còn thể hiện rõ trong sách "Trung Quốc và thanh niên Trung Quốc" do một nhóm sinh viên Trung Quốc biên soạn, Nguyễn Ái Quốc chủ biên, viết bằng tiếng Pháp, xuất bản lần đầu (bằng tiếng Nga) tại Liên Xô năm 1925.

Trong "Bản án chế độ thực dân Pháp", phần Phụ lục "Gửi thanh niên An Nam" có lời bình luận chua chát về một thực tế, khi các nước đang sục sôi đấu tranh đòi độc lập, “Riêng người An Nam, thì vẫn cứ thế: sẵn sàng làm nô lệ”. Những dòng cuối cùng là sự khẳng định Đông Dương “sẽ chết”, nếu “đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh” (1).

Tờ Thanh niên đã làm xuất sắc nhiệm vụ cách mạng, như đã xác định và được công khai: “Cách mệnh trước hết phải tuyên truyền, tổ chức, huấn luyện, sau cùng mới dùng đến vũ lực, đừng chăm chăm chỉ biết cách làm bạo động”.

"Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức" in trên Thanh niên số 5, ngày 19/7/1925 kêu gọi: “Hỡi hết thảy những người bị áp bức, anh em! Nếu bọn đế quốc áp bức chúng ta và đối xử với chúng ta như loài vật, đó là vì chúng ta không đoàn kết! Nếu chúng ta đoàn kết chúng ta sẽ trở nên đáng gờm.

Sự nghiệp của chúng ta là sự nghiệp của hàng nghìn, hàng nghìn người. Kẻ thù của chúng ta chỉ là một nhúm người. Chúng ta không được sợ chúng. Cho dù chúng có súng đạn dồi dào, chúng cũng không thể giết hết chúng ta được.

Hỡi các bạn thân yêu, chúng ta nên sớm kết đoàn lại! Hãy hợp lực để đòi quyền lợi và tự do của chúng ta! Hãy hợp lực để cứu lấy nòi giống chúng ta!...

Các bạn thân yêu! Đoàn kết của chúng ta sẽ làm nên sức mạnh. Nó đủ để đánh tan bọn đế quốc. Muốn vượt qua vòng nô lệ, chúng ta chỉ có thể cậy vào sức của mình mà thôi…” (2). Các cụm từ “Hỡi các bạn thân yêu”, “Hỡi hết thảy những người bị áp bức”, “Hỡi các bạn thợ thuyền” liên tục được lặp lại tạo nên dư âm da diết về tình cảm yêu thương không biên giới của những người bị bóc lột. Bài viết khép lại về câu chữ nhưng mở ra một chân trời mới về tình hữu ái giai cấp, dân tộc:

“Tình đoàn kết giữa các dân tộc châu Á muôn năm!

Tình đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức và thợ thuyền trên trái đất muôn năm!”.

Chỉ dài trên hai trang giấy nhưng có tới 13 chữ đoàn kết cùng biến thể hợp lực. Đoàn kết và đoàn kết chính là con đường giải phóng của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Đây cũng chính là linh hồn, là hạt nhân trong hệ tư tưởng Hồ Chí Minh, một nguyên nhân cơ bản để làm nên những chiến thắng lớn lao của cách mạng, của đất nước.

Thanh niên (bản tiếng Pháp phát hành tại Quảng Châu) số 9 tháng 8/1925 có bài viết "Hãy yêu thương nhau và cùng nhau đoàn kết" của Nguyễn Ái Quốc, mang tính định hướng và chỉ ra những nguyên tắc, giải pháp rũ bỏ kiếp hèn nô lệ: “Kẻ không đoàn kết cũng như chim lạc đàn/ Chóng hoặc chày rồi sẽ lại trúng tên/ Vì đơn độc sẽ làm mồi cho hiểm họa/ Từ kết đoàn hạnh phúc sẽ sinh sôi/ Chúng ta phải làm sao đoàn kết?/ Hãy liên kết như thể thân mình.../ Chớ hám lợi Pháp mà phản bội sự nghiệp/ Hãy đoàn kết tương trợ lẫn nhau/... Nghĩa vụ một người dân là phải yêu Tổ quốc/ Mau cải thiện tâm, tài, lực cho dân/ Vì sự nghiệp chung hãy học sống và học chết” (3).

Tên bài mang tính nội dung rất rõ: Để có “đoàn kết” trước hết phải “yêu thương nhau”. Phải làm gì? Phải chớ hám lợi, chớ phản bội. Phải giúp nhau. Phải yêu Tổ quốc. Phải làm tốt cho dân ba vấn đề then chốt: tâm, tài, lực. Mỗi cá nhân phải học sống (để lao động tốt), học chết (để cống hiến xứng đáng). Đây vẫn là vấn đề mới mẻ, thời sự cho hôm nay!

Báo Thanh niên, số kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga, ngày 7/11/1926.

Báo Thanh niên, số kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga, ngày 7/11/1926.

Đến "Truyện ngụ ngôn" (viết tại Quảng Châu năm 1925) cũng đặt ra vấn đề đoàn kết nhưng dưới góc độ phê phán. Truyện có lời mở đầu mang tính mời gọi, hấp dẫn:

“Hãy nghe câu chuyện ngụ ngôn này. Tất cả các bạn, hãy im lặng và lắng nghe!

Loài vật đang tranh nhau công trạng…”.

Có thể tóm tắt truyện thế này, con rồng tự hào là thủy tổ của người An Nam có nhiều bậc anh hùng cứu nước. Con tôm “phản biện” lại, nói tôm sướng hơn người An Nam vì thân nó cong là do ý trời còn người An Nam lưng còng là chịu sưu cao thuế nặng. Con cừu đồng tình nói, người An Nam giống loài thỏ, cừu bị cắt lông một năm một lần nhưng người An Nam bị Pháp bóc lột tứ thời. Rắn nói người Pháp “khẩu Phật tâm xà” mà người An Nam lại rước họ vào nước mình.

Voi buồn cho người An Nam “rước voi về giày mả tổ”. Lươn chê người An Nam dễ để cho đồng tiền cám dỗ. Chuột mỉa mai người An Nam không nghĩ gì đến đất nước. Gà trống khinh người An Nam vì tiền mà bội bạc. Cá chép sung sướng bởi mình sẽ có ngày hóa rồng mà buồn thay cho dân An Nam suốt đời nô lệ mà không dám vùng lên… Kết lại câu chuyện là lời bình luận của người kể: “Ôi, những người An Nam, các anh phải luôn nhớ rằng đoàn kết làm nên sức mạnh” (4).

Học tập hình thức của "Lục súc tranh công" dân gian, truyện châm biếm sự ươn hèn, yếu đuối, bạc nhược cam chịu nô lệ nhục nhã của “dân An Nam”. Không chỉ đáng đọc ở cái thời đất nước đắm chìm trong nô lệ, còn rất đáng đọc ở thời nay, để tự ý thức về tinh thần vươn lên, về cởi bỏ những tâm lý xấu, tính cách xấu…

Hôm nay người ta nói nhiều đến phản biện, phản biện xã hội, coi phản biện như là một hình thức tư duy mới mẻ, tiến bộ. Thực ra phản biện, phản biện xã hội luôn là một thuộc tính tư duy của con người, càng có tinh thần khoa học, dân chủ, càng có khát vọng đổi thay xã hội, làm mới, làm tốt cho con người thì càng giàu ý thức phản biện.

Không phải ai cũng có ý thức phản biện và năng lực phản biện, phải là người có trách nhiệm sâu sắc với xã hội, có tình yêu con người, có năng lực phát hiện vấn đề… mới có thể phản biện được. Bác Hồ là một người luôn có tinh thần phản biện mà hôm nay rất nên học tập về mọi phương diện, ý thức, cách thức, đề tài, nội dung.

Sự chuẩn bị về tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn nhất quán với tư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh sau này. Riêng tư tưởng về đoàn kết được Nguyễn Ái Quốc nung nấu từ rất sớm, như đã chứng minh ở trên, được hệ thống và nâng cao hơn ở "Lịch sử nước ta" (Hồ Chí Minh, 1942).

Đoạn cuối "Lịch sử nước ta", các từ đoàn kết, kết đoàn, đồng lòng được nhắc đi nhắc lại như nhắn nhủ, như tâm tình, như tha thiết kêu gọi: “Người chúng ít, người mình đông/ Dân ta chỉ cốt đồng lòng là nên/ Hỡi ai con cháu Rồng Tiên/ Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau/ Bất kỳ nam nữ nghèo giàu/ Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn...” (5) "Lịch sử nước ta" do Việt Minh tuyên truyền Bộ xuất bản vào tháng 2/1942, trước đó, trên Báo Việt Nam Độc lập, số 117, ngày 1/2/1942 có bài báo "Nên học sử ta", phần kết của bài viết có câu: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do/ Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn/ Vậy nay ta phải biết đoàn kết...” (6).

Có nguồn mạch là quan niệm tình thương, trọng người, giúp người trong văn hóa truyền thống và quan điểm của V.I. Lênin về đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế; tư tưởng về đoàn kết của Hồ Chí Minh thuyết phục cả về lý, về tình, sớm đi sâu vào quần chúng để trở thành sức mạnh cách mạng to lớn làm nên những sự kiện vĩ đại đi vào lịch sử dân tộc và nhân loại.

------------

(1) Hồ Chí Minh toàn tập. NXB Chính trị Quốc gia 2002, tập 2, tr 144; (2) tập 2, tr 499; (3) tập 2, tr 504; (4) tập 2, tr 444;

(5) tập 3, tr 228; (6) tập 3, tr 217.

Nguyễn Thanh Tú

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/tu-lieu-van-hoa/tu-tuong-cach-mang-toa-sang-tren-tung-trang-bao--i772181/
Zalo