Từ tiểu ngã đến vô ngã

Người đã bước vào cảnh giới thiền, thấy bản thể và hiện tượng không phải là hai thứ đối lập. Thậm chí cũng không thể dùng hai mặt của một bàn tay để ví von. Bởi vì bản thân hiện tượng chính là cái bản thể đó. Rời khỏi hiện tượng, không có bản thể khác để tìm.

Từ tiểu ngã đến đại ngã

Ở giai đoạn thứ nhất, thiền có thể giúp bạn tập trung các tâm niệm hỗn loạn. Khi luyện tập sức chú ý, trong đầu bạn vẫn có ít nhiều tạp niệm. Giai đoạn này đơn thuần là trung tâm tự ngã, không nói đến lý tưởng hoặc kinh nghiệm tôn giáo. Đến giai đoạn thứ hai, cần bạn giải phóng quan niệm tiểu ngã mới tiến vào các bậc thiền. Mở rộng tiểu ngã lớn đến bằng với thời gian và không gian, tiểu ngã dung nhập vào trong toàn thể vũ trụ, cùng vũ trụ hợp nhất. Nhìn vào nội tâm thì thâm sâu vô hạn, nhìn ra ngoại giới cũng rộng lớn vô biên. Khi đã cùng vũ trụ hợp làm một, thế giới thân tâm bạn liền chẳng tồn tại. Cái tồn tại là vũ trụ rộng lớn và thâm sâu vô hạn. Chính mình chẳng phải là một bộ phận của vũ trụ mà là toàn thể vũ trụ.

Pháp sư Thánh Nghiêm

Pháp sư Thánh Nghiêm

Trong lúc tọa thiền, sau khi thể nghiệm đến như thế, bạn liền biết các quan niệm mà triết học nói đến, bản thể là cái gì, sự tồn tại của hiện tượng là cái gì. Bởi vì tất cả hiện tượng là bề mặt của bản thể. Nhìn từ góc độ hời hợt, tất cả hiện tượng có muôn ngàn sai biệt, mỗi loại có tính chất chẳng đồng. Nhưng trên thực tế, sự sai biệt của hiện tượng vẫn không ngại đến sự toàn vẹn của bản thể. Ví dụ như trái đất của chúng ta có vô số thực vật, động vật và khoáng vật, hoặc thể khí, thể lỏng, thể rắn, sanh diệt biến đổi không ngừng. Nếu từ hành tinh khác nhìn xuống thì trái đất cũng chỉ là tinh cầu mà thôi. Chỉ cần chúng ta có cơ hội thoát khỏi sự trói buộc tự ngã hoặc quan niệm chủ quan, đứng trên lập trường khách quan để quan sát tất cả hiện tượng, sẽ xóa bỏ quan niệm đối lập và mâu thuẫn.

Giai đoạn thứ hai này, có thể làm cho bạn thể nghiệm được, bạn không chỉ tồn tại cá biệt độc lập mà còn phổ biến trong vũ trụ thâm sâu, rộng lớn vô hạn. Khi ấy, mâu thuẫn giữa bạn và hoàn cảnh chẳng còn tồn tại. Sự bất mãn, phẫn nộ, yêu thích, khát vọng đối với hoàn cảnh - cũng chính là tâm lý bài xích và đeo đuổi - tự nhiên tan biến. Điều bạn cảm nhận được là sự an tịnh và sung mãn. Bởi vì đã tiêu trừ tiểu ngã ích kỷ, nên bạn có thể xem tất cả người và vật đều là hiện tượng được sinh ra từ bản thể của mình. Do đó bạn yêu thương tất cả người và vật như yêu tiểu ngã của mình. Đây là tâm lượng của các nhà triết học lớn.

Đương nhiên, tất cả các nhà tôn giáo vĩ đại cũng từng có thể nghiệm qua giai đoạn thứ hai này. Sau khi giải thoát khỏi lĩnh vực tiểu ngã, họ phát giác được bản thể của mình chính là tồn tại của toàn thể vũ trụ. Họ cùng vạn vật không hai không khác, hiện tượng của vạn vật là do tự thể của họ sinh ra. Họ có trách nhiệm yêu thương và bảo vệ vạn vật, cũng có quyền lực chi phối vạn vật. Giống như chúng ta có trách nhiệm yêu thương và bảo vệ con cái của mình và có quyền chi phối tài sản của mình vậy. Điều này hình thành mối quan hệ giữa thần và vạn vật: đem bản thể vũ trụ mà họ trải nghiệm trong thiền định nhân cách hóa để cấu thành tín ngưỡng thượng đế; đem quan niệm đại ngã tự yêu của thượng đế cụ thể hóa để cấu thành sứ mệnh của đấng cứu thế hoặc sứ giả của thần. Kết quả, một số nhà tôn giáo lớn cho rằng bản chất linh hồn của họ giống với thần, do thần hiện thực hóa mà thành người. Một số nhà tôn giáo cho rằng bản chất linh hồn của họ tuy giống với thần và không thể tách rời, nhưng hiện tượng thân thể của họ là sứ giả phụng mệnh thần đến thế gian để truyền đạt ý thần.

Các nhà triết học hoặc tôn giáo đạt đến đỉnh cao của giai đoạn thứ hai liền cảm nhận được trí tuệ của họ là vô hạn, lực lượng của họ là vô cùng, sinh mệnh là vô tận. Nhưng phạm vi của “ngã” càng lớn, lòng tự tín càng lớn mạnh. Trên thực tế, đó chính là sự nâng cấp vô hạn của cảm giác ưu việt và tâm kiêu mạn. Do đó gọi là đại ngã, vì vậy không đồng nghĩa với việc giải thoát triệt để khỏi phiền não.

Từ đại ngã đến vô ngã

Khi bạn đạt đến đỉnh cao của giai đoạn thứ hai, tự biết quan niệm “ngã” đã không còn tồn tại, nhưng đó chỉ là vứt bỏ tiểu ngã riêng tư, chứ chưa thể phủ định quan niệm bản thể hoặc sự thực tại của thần. Bất kể bạn gọi nó là chân lý, vị thần duy nhất, quyền uy tối cao, nguyên tắc bất biến. Thậm chí là Phật mà Phật giáo gọi, nếu bạn cho rằng nó là thực hữu, thì đều không vượt ra khỏi cảnh giới đại ngã, đều không vượt ra khỏi phạm vi triết học và tôn giáo.

Phải nói với bạn rằng, đến giai đoạn thứ ba mới là nội dung của thiền. Thiền là không cách gì tưởng tượng được. Nó cũng không phải là một thứ quan niệm, càng không phải là cảm giác. Chẳng thể dùng bất cứ quan niệm trừu tượng hoặc sự vật cụ thể nào để giải thích nó. Thiền định đương nhiên là quá trình mà người bình thường phải trải qua trên con đường đến với thiền. Nhưng đến cửa thiền, phương pháp thiền định cũng không còn tác dụng. Giống như sử dụng phương tiện giao thông đưa bạn đến địa điểm sau cùng. Phía trước là vách đá cheo leo của một ngọn núi cao, vách đá này nhìn lên không thấy đỉnh, nhìn sang hai bên không thấy mé bờ. Lúc này, có một người từng đến phía bên kia vách đá, chỉ vào vách đá nói với bạn rằng cõi thiền chính là phía bên kia vách đá này, vượt qua vách đá bạn sẽ bước vào cảnh giới thiền. Nhưng người ấy lại nói với bạn, đừng hy vọng dùng bất cứ phương tiện giao thông nào để bay qua nó, hoặc đi vòng qua nó, hoặc xuyên qua nó. Bởi vì nó chính là bản thân vô hạn, bạn không thể dùng bất cứ phương pháp nào để vượt qua nó.

Dù là một vị thiền sư cao minh, khi dẫn dắt học trò đến đây cũng sẽ có cảm giác bất lực. Tuy là người đã trải qua, nhưng vị ấy vẫn chẳng thể dắt bạn qua được. Điều này giống như đạo lý, cha mẹ ăn uống nhưng chẳng thể làm cho đứa con không chịu ăn uống của họ giải trừ cơn đói khát vậy. Lúc này, điều duy nhất vị ấy có thể giúp bạn là nói với bạn, hãy giải trừ tất cả kinh nghiệm, tất cả tri thức, tất cả những thứ và quan niệm mà bạn cho là đáng tin cậy nhất, vĩ đại nhất, thực tại nhất. Ngay cả hy vọng bước vào cảnh giới thiền cũng phải giải trừ. Giống như trước khi bước vào một tòa kiến trúc đặc biệt thần thánh, người gác cửa nói với bạn, chẳng những không được mang theo binh khí, mà tất cả quần áo giày dép cũng phải cởi bỏ. Không chỉ phải trút bỏ các thứ bên ngoài, mà cả thân thể và tâm linh của bạn cũng phải giải trừ hoàn toàn, mới cho phép bạn vào. Bởi vì thiền là cõi vô ngã, khi trong lòng bạn còn một thứ gì đó để nương tựa thì không thể tương ứng với thiền. Do đó, thiền là lĩnh vực của người trí, cũng là lĩnh vực của người dũng. Nếu không phải người trí, không thể tin rằng sau khi giải trừ tất cả chỗ nương tựa, sẽ có một cảnh giới khác xuất hiện trước mặt bạn. Nếu không phải người dũng, muốn vứt bỏ tất cả mọi thứ từ khi bạn sinh ra, bất kể là tư tưởng hay tri thức, tinh thần hay vật chất, đều là việc rất khó làm được.

Có lẽ bạn sẽ hỏi: Phải hy sinh lớn như vậy, sau khi bước vào cảnh giới thiền thì có lợi ích gì? Khi bạn còn có câu hỏi này, bạn không thể vào được. Tâm cầu lợi ích, bất kể là vì mình hay vì người, đều là cảnh giới hữu ngã. Lục tổ Huệ Năng dạy người phương pháp khai ngộ để bước vào cảnh giới thiền là “không nghĩ thiện, không nghĩ ác”. Tức là đem các quan niệm đối lập như ta và người, trong và ngoài, có và không, lớn và nhỏ, tốt và xấu, phiền não và Bồ-đề, mê và ngộ, hư vọng và chân thật, khổ của sinh tử và vui của giải thoát v.v... tất cả đều xóa bỏ. Khi ấy, cảnh giới thiền và ngộ mới có thể phát sinh trong sinh mệnh của bạn. Bạn sẽ đạt được một sinh mệnh mới. Sinh mệnh mới này vốn dĩ bạn đã có nhưng chưa từng phát hiện. Thiền tông gọi nó là bộ mặt xưa nay trước khi cha mẹ sinh ra bạn. Đây không phải là tiểu ngã thân tâm thể xác, cũng không phải là đại ngã vũ trụ thế gian mà là sự tự do triệt để không bị bất cứ phiền não nào trói buộc quấy nhiễu. Muốn bước vào cửa thiền như vậy không phải việc dễ dàng. Nhiều người học thiền và tọa thiền mấy chục năm, vẫn không tìm được cửa vào. Nếu nhân duyên của bạn chín muồi, đã vào cửa, bạn mới phát hiện, thiền là không có cửa để vào. Trước khi vào không thấy cửa ở đâu. Sau khi vào rồi, cửa cũng không tồn tại. Bằng không bạn sẽ có sự phân biệt trong ngoài và mê ngộ. Nếu có phân biệt, vẫn không phải là thiền.

Người đã bước vào cảnh giới thiền, thấy bản thể và hiện tượng không phải là hai thứ đối lập. Thậm chí cũng không thể dùng hai mặt của một bàn tay để ví von. Bởi vì bản thân hiện tượng chính là cái bản thể đó. Rời khỏi hiện tượng, không có bản thể khác để tìm. Thực tại của bản thể chính nằm trong sự không thực tại của hiện tượng. Hiện tượng là biến hóa không ngừng, không có trạng thái thường hằng. Đây chính là chân lý. Khi bạn trải nghiệm được hiện tượng không phải là thứ thực tại, bạn sẽ được giải thoát khỏi tất cả quan niệm nhân và ngã, phải và quấy do hiện tượng tạo thành, cũng như giải thoát khỏi tâm phiền não như tham dục, phẫn nộ, ưu lo, kiêu mạn v.v... Bạn không cần theo đuổi tĩnh lặng và thanh tịnh, cũng không cần ghét bỏ phiền não và tạp uế.

Đây là tôi đã hé lộ một chút tâm cảnh sau khi bước vào cảnh giới ngộ của thiền, cũng là quá trình tu hành từ tiểu ngã đến vô ngã.

Pháp sư Thánh Nghiêm

Bổn Trung biên dịch

-------------------

1 (Biên dịch từ 04-03 禪的體驗.禪的開示 của Pháp Cổ Sơn toàn tập)

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn/tu-tieu-nga-den-vo-nga-post75975.html
Zalo