Từ Chiếu dời đô đến kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Chiếu dời đô là văn kiện trọng đại mang tầm khai mở thời đại mới. Việc xuất hiện Chiếu dời đô có ý nghĩa lịch sử trọng đại của tiến trình 1000 năm lịch sử của dân tộc. Để hiểu rõ hơn về thời kỳ hào hùng cũng như sự phát triển của thời đại vươn mình của dân tộc, hãy cùng theo dõi cuộc trò chuyện của phóng viên Lê Thông và Nhà sử học Dương Trung Quốc.
Chiếu dời đô - Trên vâng mệnh trời, dưới theo lòng dân
Phóng viên: Thưa nhà sử học Dương Trung Quốc, việc rời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Là người nghiên cứu lịch sử, ông luận nghĩa như thế nào về sự kiện này?
Nhà sử học Dương Trung Quốc: Trong xã hội truyền thống hay hiện đại, Kinh Đô là biểu tượng hết sức quan trọng của một quốc gia. Do đó, dời đô là việc rất hệ trọng. Như chúng ta đã biết, nhà Lý khẳng định vị thế trong lịch sử dân tộc bằng một việc làm đầu tiên ngay sau khi Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ lên ngôi: Ngài đưa ra quyết định quan trọng nhất là dời đô. Từ đó, mở ra cả một thời kỳ mới cho lịch sử dân tộc, thời kỳ lịch sử gắn liền với nền văn hiến.
Khi Lý Công Uẩn lên ngôi, việc đầu tiên là Ngài dời đô. Chiếu dời đô được chép lại trong Chính Sử Việt Nam sau này, Cụ có đề cập tới một quan niệm lấy khá nhiều chuẩn mực của phương Bắc. Ý nói mảnh đất Đại La người phương Bắc định vị là nơi cai trị - nơi có thế đất rất đẹp, trung tâm rồng cuộn hổ ngồi. Đó là đất muôn đời kinh sư. Nhưng tôi cho rằng, cách diễn đạt như văn bản ấy thể hiện một tư tưởng lớn hơn rất nhiều, một tư tưởng đổi mới về tư duy. Nếu những thế hệ tiền nhân luôn nhìn phương Bắc chỉ là kẻ bành trướng, mối đe dọa, người ta phòng thủ, chống trả thì lần đầu tiên – người đứng đầu một triều đại là Đức vua Lý Thái Tổ, mà đằng sau Ngài có sự tham vấn của các vị đại sư, thiền sư của Đạo Phật,… nên lần đầu tiên Ngài có cách nghĩ, nhìn nhận phương Bắc là một nền văn minh.
Câu chuyện chứa đựng trong hai chữ “Thăng Long” không chỉ là nét đẹp như trong sử viết: Từ sông Hồng vào hồ Tây nhìn lên bầu trời thấy vượng khí như những áng mây, rồng bay lên trời. Chính là chỗ con rồng được “tháo cũi sổ lồng” sau một thiên niên kỷ bị trói buộc. Tôi cho đó là sự chủ động hội nhập vô cùng sáng suốt của Đức vua Lý Thái Tổ.
Phóng viên: Vậy ông có nhận định gì về những chính sách gắn liền với triều đại định đô mới ở Thăng Long dưới góc nhìn của nhà sử học?
Nhà sử học Dương Trung Quốc: Thứ nhất là ngôn ngữ. Người Việt đã phát triển đến nền văn minh cao và biểu tượng bằng văn hóa Đông Sơn. Biểu tượng bằng những giá trị vật thể như Trống Đồng, đồ đồng rất tinh xảo, dù lúc đó chúng ta đã có ngôn ngữ viết chưa? Đấy là một câu hỏi của các nhà nghiên cứu. Nhưng hiện tại vẫn chưa có đầy đủ căn cứ chứng minh chúng ta có chữ viết.
Phải chăng chúng ta có chữ viết, nhưng hơn một nghìn năm đô hộ bằng chính sách đồng hóa mà mất dần. Trong trường hợp đó, nhà Lý có một chính sách rất khôn ngoan là chấp nhận dùng chữ Hán làm Quốc ngữ.
Một thời gian người ta coi quảng bá chữ Hán là một cách đồng hóa, nhưng nhà Lý coi chữ viết là "nam gia học độ", lấy công cụ của họ phục vụ cho mình. Từ thời Lý, chúng ta mới lấy chữ Hán làm Quốc tự. Rồi nhà Lý dựng Khổng Tử làm văn miếu, xây dựng một chế độ thi cử bằng chữ Hán; một số văn kiện, thư tịch của người phương Bắc để đào tạo ra nguồn nhân lực. Chính nguồn nhân lực, trí thức Việt Nam thời kỳ đó đầu tiên xuất thân từ Hán học là người sáng tạo ra chữ Nôm sau này. Không những vậy, chính họ là người truyền tải tư tưởng của dân tộc Việt Nam mà biểu tượng cao nhất là bài "Nam Quốc Sơn Hà" được coi như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên, tuyên ngôn độc lập về văn hóa.
Sự sáng suốt của nhà Lý là học điều hay của nước ngoài nhưng giữ rất chặt bản sắc của mình. Ngay trong ngôn ngữ, viết chữ Hán nhưng nói tiếng Nam. Cộng đồng người biết chữ Hán không nhiều lắm, từng ấy tri thức, họ tiếp tục đào sâu vào văn hóa phương Bắc, tìm ra điều hay để bổ sung cho mình, ứng dụng cho lợi ích của mình. Nhờ đó, tiếng Việt có một kho tàng Hán Việt rất phong phú, đủ để truyền tải theo cùng thời đại của mình.
Trên phương diện thiết chế chính trị và xã hội ở thượng tầng, nhà Lý học rất nhiều ở phương Bắc. Họ có Hoàng đế, ta cũng xưng Hoàng đế. Tất nhiên, trong quan hệ song phương, có khi ta nhận phong Vương của họ nhưng trong nước ta vẫn gọi mình là Hoàng đế. Người đứng đầu quốc gia vẫn là Hoàng đế và được duy trì đến thời kỳ của Vua Bảo Đại. Vua là một khái niệm rất dân gian, nhưng ở thượng tầng, ta học Trung Hoa tất cả cái hay của họ. Hạ tầng là làng xã, thì có thể nói trong trường kỳ lịch sử, nó là tế bào sống của dân tộc ta, là nguồn lực của dân tộc ta, tạo cốt cách của dân tộc ta.
Phía trên hội nhập mạnh mẽ, phía dưới củng cố cực kỳ chặt chẽ và tạo ra nền văn hiến trải qua mấy triều đại Lý, Trần, Lê và cả Nguyễn. Thời Nguyễn bắt đầu có một thử thách là ứng phó với phương Tây. Có thể nhà Nguyễn đã không làm được như tiền nhân nên dẫn đến mất nước. Hiện tại, ta vẫn quan niệm văn hóa phương Tây là một phần văn hóa của dân tộc mà chúng ta tiếp nhận được ngày xưa. Chính người Pháp nói rằng, con đường đi sang Pháp là con đường chống lại nước Pháp, người Việt Nam sang nước Pháp học văn minh của Pháp thì văn minh của Pháp lại chống lại chủ nghĩa thực dân của Pháp. Do đó, chuyện dời đô gắn liền với văn kiện chiếu dời đô là bài học rất thời sự của hôm nay.
Trong cách ứng xử với thế giới đang mở rộng mở, đầy là cơ hội nhưng cũng đầy những đe dọa, thách thức. Ta nên làm như thế nào? Ta phải dũng cảm hội nhập, chủ động để học cái hay của thế giới. Đồng thời, chúng ta phải giữ rất chặt bản lĩnh, bản sắc của mình.
Phóng viên: Về mặt địa lý, Việt Nam nằm ở vị trí là phía Nam của văn hóa Đông Bắc Á, địa thế rất gần với các khu vực Đông Nam Á. Như vậy, vị trí mang ý nghĩa thế nào với vận mệnh của dân tộc mình, thưa ông DươngTrung Quốc?
Nhà sử học Dương Trung Quốc: Trên phương diện vĩ mô, Việt Nam là một phần của Bách Việt, gắn liền với văn minh lúa nước về địa lý ở phía Nam sông Dương Tử. Đồng thời bắt đầu gắn với một không gian địa văn hóa khác, nay định danh là Nam Á và Đông Nam Á. Lịch sử dân tộc Việt Nam ban đầu gốc ở trong vùng trung du Bắc Bộ, là một phần của văn minh Đông Á, trong đó ảnh hưởng của Trung Hoa rất lớn nhưng có phần gắn kết với phương Nam.
Nhìn nhận bằng con mắt hiện đại, trong khối các nước Đông Nam Á, Việt Nam là nước duy nhất có văn hóa với Đông Á, và trong các nước Đông Á thì chúng ta gắn kết với Đông Nam Á. Do đó đã tạo nên cầu nối, một vị thế rất quan trọng, vừa làm đa dạng, phong phú cho văn hóa dân tộc, cho nguồn lực của dân tộc; đồng thời để chúng ta có thể phát huy vị thế của mình trong cộng đồng các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Phóng viên: Trở lại với Thành Đại La. Việc di dời đô là một vấn đề hệ trọng. Ông nghĩ gì về thời điểm dời đô? Phải chăng khi ấy thế lực của nhà Lý đã đủ mạnh?
Nhà sử học Dương Trung Quốc: Điều đó có thể khẳng định được. Một phần là trong tình hình chung lúc đó, tương quan giữa tình hình chính trị của lãnh thổ bên ta đã hình thành Nhà nước Đại Việt. Thời Lý, ta cất lên ý chí “Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư”. Nhưng thời Lý không có chiến tranh với phương Bắc. Đức vua Lý Thái Tổ chưa bao giờ phải động binh để làm một cuộc chiến tranh. Mặc dù có tuyên ngôn ý chí của mình nhưng đặt một sự bền vững cho nền tự chủ quốc gia, xây dựng được nền tảng văn hiến không phải chỉ sự đụng độ về sức mạnh quân sự của những thời kỳ trước kia. Đó là một điều cực kỳ quan trọng và là di sản thừa hưởng cho đến ngày hôm nay của chúng ta. Ngày hôm nay, vai trò của đại đoàn kết dân tộc là luôn rộng mở, hội nhập. Đó là lợi thế của Việt Nam và được lịch sử chứng minh bằng thực tiễn của của ngàn năm qua.
Phóng viên: Trong bối cảnh địa chính trị đương đại hiện nay, ông nghĩ gì về phương châm: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”?
Nhà sử học Dương Trung Quốc: “Dĩ bất biến ứng vạn biến” thực ra là một nguyên lý sống không phải của riêng Việt Nam. Luôn lấy ý chí độc lập, tự chủ là cốt lõi, làm bất biến; vạn biến là ứng phó với hoàn cảnh mỗi lúc, mỗi nơi, mỗi thời. Tuy nhiên, “dĩ bất biến, ứng vạn biến” thể hiện một cách đầy đủ hơn, thể hiện rõ nhất trong lịch sử hiện đại. Lịch sử khốc liệt của một nước Việt Nam nằm ở vị trí địa lý, giữa sự đụng độ của những nước lớn, lợi ích nước lớn. Chúng ta không phải chỉ tồn tại mà còn tạo dựng được một vị thế riêng cho mình.
Tại sao Việt Nam tồn tại ở ngay trung tâm của những biến động lớn nhất của lịch sử thế giới? Người Việt Nam biết đánh giặc nhưng cũng biết cách hòa giải quá khứ, để tạo ra được một lợi thế cho sự phát triển của chính mình và cũng đóng góp cho nhân loại. Hòa bình, ổn định là mong muốn chung của nhân loại. Vì thế, lịch sử hiện đại Việt Nam hấp dẫn đối với người nước ngoài.
Phóng viên: Về tinh thần của Chiếu dời đô của Đức vua Lý Công Uẩn cho đến nay, ông thấy có những mối liên hệ như thế nào để thích ứng với tình hình, bối cảnh hiện nay?
Nhà sử học Dương Trung Quốc: Chiếu dời đô là một văn kiện lịch sử. Do đó, ngôn từ, cách diễn đạt nên được tôn trọng, nhưng tinh thần phải hiểu cho phù hợp. Đó là ta phải khai thác tất cả những gì tốt nhất cho lợi ích dân tộc, dù nó đến từ đâu, dù là người phương Bắc chọn Đại La, nhưng nếu điều đó có lợi ích dân tộc, tại sao ta lại quay lưng? Là con người không nên cực đoan, thay vào đó nên hết sức sáng suốt, luôn luôn lấy cái bất biến, làm sao cho lợi ích cho mình, cho dân tộc của mình và sẵn sàng không bị ràng buộc bởi những cái quan niệm hẹp hòi.
Trong tất cả các triều đại trong lịch sử cận đại, câu chuyện nhà Nguyễn là giai đoạn thử thách lớn nhất dẫn đến mất nước. Qua đó rút ra bài học, khi thời đại thay đổi, ta cũng phải thay đổi. Chính thất bại của nhà Nguyễn là không giữ được bản lĩnh của người đi trước. Do đó, chúng ta nối tiếp sự nghiệp của các bậc tiền nhân và phải học bài học ấy. Chúng ta phải mạnh dạn, chủ động hội nhập với thiên hạ nhưng phải giữ chặt bản thân mình, phải giữ cốt lõi, bản lĩnh, bản sắc của mình để có chỗ đứng trong thiên hạ.
Phóng viên: Đất nước ta trải qua lịch sử thăng trầm nhưng sâu bên trong vẫn hiện lên rõ nét tinh thần thống nhất giang sơn qua các triều đại. Ông có suy nghĩ gì về điều này?
Nhà sử học Dương Trung Quốc: Nhà Lê được xác lập trên nền tảng thắng lợi của cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Đức Lê Thái Tổ được tôn vinh là vị tổ Trung Hưng thứ hai sau Đức Ngô Quyền, do lấy lại được nền tự chủ đã từng bị mất trong 200 năm đô hộ của giặc Minh và mở ra một kỷ nguyên mới cho nhà Lê. Nhưng rồi triều đại đó cũng suy thoái. Một trong những biểu tiện suy thoái là tạo ra một hình thái đất nước tưởng như là bị phân rã: Nam Bắc phân tranh, nhà Mạc nổi lên chống lại nhà Lê.
Phương Bắc chúng ta vẫn giữ được biên giới phía Bắc ổn định. Có thể nói theo cách ngày nay là hai bên cạnh tranh nhau thì mới mở ra Phố Hiến ở Đàng ngoài và Hội An ở Đàng trong để hội nhập với bên ngoài. Đến cơ hội chín muồi, Quang Trung Nguyễn Huệ thực hiện trách nhiệm là chấm dứt, đặt nền tảng cho thống nhất quốc gia; nhà Nguyễn, Gia Long là người củng cố nền tảng quốc gia. Vua Minh Mệnh củng cố về mặt chủ quyền và hành chính. Đến khi đứng trước nguy cơ xâm lược của phương Tây, nhà Nguyễn đánh mất đi bản lĩnh, đứt gãy với truyền thống của ông cha và chịu sự phán xét của lịch sử.
Ý chí thống nhất là một khát khao mãnh liệt của người Việt Nam và được thực hiện bằng chính lịch sử hiện đại. Dù xương máu gian khổ nhưng tất cả đều quyết tâm thực hiện bằng ý chí của mình.
Phóng viên: Đến nay, chúng ta đã nhìn thấy những điều kiện gì cho kỷ nguyên vươn mình của dân tộc theo góc nhìn của Nhà sử học Dương Trung Quốc?
Nhà sử học Dương Trung Quốc: Chưa bao giờ chúng ta, kể cả thế giới chứng kiến một sự thay đổi lớn lao ở thượng tầng bộ máy lãnh đạo đất nước như vừa rồi. Có hai điều cực kỳ quan trọng mà lịch sử dạy chúng ta, là phải có một thượng tầng gương mẫu và một hạ tầng kỷ cương. Do đó, giá trị của kỷ nguyên mở ra cách đây 80 năm cực kỳ quan trọng và đang tiếp tục
Quyết định dời đô mở ra thời kỳ phát triển huy hoàng cho Thăng Long - Hà Nội
Phóng viên: Khi nghe bài hát "Nhớ về Hà Nội" trong những ngày Xuân, cảm xúc trong ông như thế nào?
Nhà sử học Dương Trung Quốc: "Nhớ về Hà Nội" sẽ có nhiều tâm thế khác nhau của mỗi người. Chúng ta hay nhắc đến lời thơ của nhà thơ, chiến sĩ nói về nỗi nhớ nhung từ phương Nam, nghĩ về cội nguồn phương Bắc, từ ngày vác gươm đi mở nước. Đấy cũng có thể là một người đã từng ở Hà Nội đi xa, nhớ về. Có thể những người lớn tuổi như tôi hay nhớ về cái cũ. Tuy nhiên, xa-gần- cũ-mới chỉ gộp là một! Đó là nhớ về nguồn cội. Cội nguồn không phải là quê, mà cội nguồn là cả một nền tảng và gắn bó với mình. Cội nguồn là nguồn dân tộc! Chính vì vậy, bài hát "Nhớ về Hà Nội" gợi lại điều đó, đánh vào tâm thức chung của mọi người.
Phóng viên: Trong bài hát "Nhớ về Hà Nội" có một câu: “Một thời đạn bom, một thời hòa bình”. Có lẽ, trước khi hòa bình như hôm nay, quá trình từ Thăng Long đến những triều đại khác nhau và giai đoạn Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội khẳng định vai trò của mình như thế nào, theo quan điểm của ông?
Nhà sử học Dương Trung Quốc: Chúng ta đã có một câu "Thăng Long phi chiến địa", nhưng đó là mơ ước của chúng ta. "Phi chiến địa" không phải tự nhiên mà có. Chúng ta phải trải qua thử thách, chỉ khi nào đất nước mạnh, giàu thì nó mãi mãi là "phi chiến địa".
Tôi rất nhớ câu chuyện khi Chủ tịch Hồ Chí Minh - bằng tất cả dự cảm của mình, nói rằng cuộc chiến tranh này phải kết thúc trên bầu trời Hà Nội. Còn tư tưởng hòa bình, tư tưởng đã đọng lại trong truyền thuyết nằm giữa Thủ đô ('Truyền thuyết trả gươm") đó là một ao ước của cả dân tộc. Chúng ta cũng đã chứng kiến mùa xuân năm 1789, đoàn quân Quang Trung thần tốc ra đánh giặc Thanh ở ngay lòng Thăng Long. Vậy cho nên chúng ta tìm ra những biểu tượng, đó là đúc kết cả kinh nghiệm, kể cả xương máu của ông cha chúng ta để có khao khát, mục đích cuối cùng, mục đích cao nhất là chúng ta mong muốn có hòa bình! Biểu tượng Hà Nội là thành phố hòa bình.
Phóng viên: Ông có nhận định như thế nào về sức sống văn hóa của Hà Nội khi chúng ta đang có những cái làn sóng giao thoa rất lớn?
Nhà sử học Dương Trung Quốc: Chúng ta nói rất nhiều về văn hiến, nói rất nhiều truyền thống nhưng đừng nghĩ văn hiến truyền thống là chuyện cũ, là làm lại cái cũ. Văn hiến hay truyền thống là phương thức làm thế nào tồn tại cho đến ngày hôm nay, với tất cả những giá trị mà chúng ta trân trân trọng. Vì vậy, chúng ta phải sẵn sàng xây dựng truyền thống ngay trong đời sống hàng ngày. Nhưng nhiều người sai lầm nghĩ “cứ như cũ, mới là truyền thống”. Thực ra, truyền thống là phát triển như quá khứ chúng ta đã phát triển để có ngày hôm nay. Do đó, Hà Nội vẫn là một nơi sôi động nhất, nơi vừa thích hợp, vừa lan tỏa nhất và cũng có nghĩa là nhiều thử thách nhất.
Phóng viên: Ông có những kỳ vọng gì cho Hà Nội cũng như cho cả nước trong mùa xuân mới?
Nhà sử học Dương Trung Quốc: “Độc lập, tự do, hạnh phúc” là câu tôi rất thích. Câu chúc của các cụ ngày xưa rất đơn giản và lúc nào cũng đúng cả. Mỗi ngày phải một mới, không thỏa mãn với cái cũ, mỗi ngày làm cái mới, không nhìn quá xa và đi từng bước chắc chắn bền vững thì sẽ đến đích.
Xin chân thành cảm ơn Nhà sử học Dương Trung Quốc.