'Tu binh' và 'chiêu binh'

Độc giả Bình Thanh (Thanh Hóa) hỏi: 'Xưa nay tôi thường nghe là Chiêu binh mãi mã. Thế nhưng xem trong hai quyển 'Từ điển chính tả tiếng Việt' (GS.TS Nguyễn Văn Khang - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội - 2018) và 'Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt - Hán' (Nguyễn Văn Khang - NXB Văn hóa Sài Gòn - 2008) thì lại thấy viết là 'tu binh mãi mã - 修兵買馬'. Tôi thấy hơi vô lý vì 'binh' (binh lính) thì làm sao mà 'tu' (tu sửa) được? Vậy xin chuyên mục 'Cà kê chuyện chữ nghĩa' cho biết ở đây có sự nhầm lẫn gì không? Nó có được xem là dị bản của 'Chiêu binh mãi mã' không? Nếu đúng là dị bản thì 'Tu binh mãi mã' khác gì so với 'Chiêu binh mãi mã'?

Trân trọng cảm ơn”.

Trả lời:

Hán ngữ đại từ điển ghi cho chữ binh 兵 tới 6 nghĩa: 1. Binh khí; 2. Quân lính, quân đội; 3.Việc quân sự, chiến tranh; 4. Dùng binh khí giết người; 5. Làm cho tổn thương, làm hại; 6. Chết trận, chết vì giặc.

Như vậy, “tu binh” vẫn có nghĩa, và có thể hiểu là “tu sửa binh khí” hoặc “chỉnh đốn binh sĩ”, “huấn luyện binh sĩ”... (chữ “tu” 修 ngoài nghĩa sửa chữa, còn có nghĩa là xây dựng, bồi dưỡng). Ví dụ: Sử ký - Trọng Ni đệ tử liệt truyện có nhắc đến “tu binh hưu tốt”: “Tử Cống nói: “tu sửa binh khí, cho quân lính nghỉ ngơi, chờ cơ hội” [史記‧仲尼弟子列傳: “子貢 曰: ‘修兵休卒以待之’]. Như vậy, trong cụm từ “tu binh hưu tốt” thì “tu binh” được hiểu là “tu sửa binh khí” (không thể hiểu với nghĩa là chỉnh đốn binh sĩ), vì vế sau là “hưu tốt” (cho binh lính nghỉ ngơi, dưỡng sức).

Tuy nhiên, trong cả tiếng Việt lẫn tiếng Hán, người ta thường dùng “chiêu binh mãi mã”, chứ không dùng “tu binh mãi mã”. Bởi vì phải là “chiêu binh, mãi mã” mới có nghĩa: tổ chức hoặc gây dựng lực lượng. Theo đây, “chiêu binh” là tuyển mộ binh sĩ, đối với “mãi mã” là mua ngựa chiến, có thể hiểu là xây dựng lực lượng hoàn toàn mới để dấy binh. Còn “tu binh” là phải đi với “hưu tốt” với nghĩa chỉnh đốn, nuôi dưỡng lực lượng đã có sẵn.

Hán ngữ đại từ điển phân biệt nghĩa của tu binh và chiêu binh như sau:

- “tu binh: tu sửa binh khí” [tu binh: chỉnh lí binh khí - 修兵: 修整兵器].

- “chiêu binh: 1. kêu gọi gia nhập quân đội; 2. thời xưa chiêu mộ người tham gia quân đội”. [Chiêu binh: 1. Chiêu lai quân đội; 2. Cựu thời chiêu mộ nhân lai đương binh - 招兵 : 1. 召來軍隊; 2. 舊時招募人來當兵].

Tất cả các cuốn từ điển chúng tôi có trong tay đều chỉ thu thập bản “Chiêu binh mãi mã”:

- Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên- Vietlex): “chiêu binh mãi mã• 招兵買馬 1 [cũ] chiêu mộ binh lính, mua ngựa chiến để chuẩn bị chiến tranh. chiêu binh mãi mã chờ ngày xuất quân. 2 [kng] tập hợp lực lượng, vây cánh để tranh giành quyền lực”.

- Hán ngữ đại từ điển (La Trúc Phong chủ biên): “chiêu binh mãi mã: 1. chiêu mộ binh sĩ, mua sắm chiến mã, nói tổ chức vũ trang, tăng cường binh lực; ví dụ: “Hạn cho hắn trong ba năm phải chiêu mộ binh sĩ, mua sắm chiến mã, quấy nhiễu vùng Hoài Dương...” (trích Mẫu Đơn Đình - Đường Hiển Tổ); 2. tổ chức hoặc tăng cường nhân lực.” [nguyên văn: 招兵買馬: 1. 招募士兵, 購置戰馬; 謂組織武裝, 擴充兵力; 2. 比喻組織或擴充人力].

Như vậy, câu “Tu binh mãi mã” mà độc giả Bình Thanh trích dẫn từ hai cuốn từ điển trên đây là một sự nhầm lẫn kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, chứ không được xem là dị bản của “Chiêu binh mãi mã”. Bởi nó ra đời do sự nhầm lẫn, nên chúng ta cũng không đặt vấn đề so sánh sự giống nhau, khác nhau, mà chỉ chấp nhận duy nhất bản “Chiêu binh mãi mã” mà thôi.

Mẫn Nông (CTV)

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/tu-binh-va-nbsp-chieu-binh-269475.htm