Sự vắng mặt đáng ngại
Trong tuần vừa qua, giới mỹ thuật trở nên 'xôm tụ' hơn sau khi mạng xã hội xuất hiện một bài viết của nữ họa sĩ Sophie Trịnh với nội dung tranh luận với những bài viết về hội họa của nhà phê bình văn học Nguyễn Thanh Sơn.
Thực tế, những bài viết của Nguyễn Thanh Sơn không được xem là phê bình mỹ thuật và bản thân Nguyễn Thanh Sơn cũng không tự nhận mình là nhà phê bình mỹ thuật; song, cách mà Sophie Trịnh phản bác các quan điểm đánh giá của Nguyễn Thanh Sơn đã cho nhiều người được sống lại với không khí học thuật sôi nổi của văn nghệ vốn dĩ đã thiếu vắng một thời gian quá dài.

Nữ họa sĩ Sophie Trịnh.
Phải thừa nhận, trong giới văn nghệ, đã nhiều năm qua phê bình gần như vắng bóng và lĩnh vực mà phê bình còn hoạt động tương đối nhất chính là mỹ thuật. Trong khi đó, phê bình văn học thì ngày càng trở nên yếu ớt, phần vì không có các tác phẩm đủ lớn, đủ sức tạo ra tranh cãi và phần khác, vì sự nuông chiều quá mức của báo chí cho các hoạt động giải trí thay vì các hoạt động nghệ thuật nghiêm túc. Những nhà phê bình gần như trở thành những cá nhân bên lề của nghệ thuật và lâu dần, rất có thể họ đã quen với một sức ì đã trở thành tập quán, dẫn tới việc họ ngại tham gia lĩnh vực vốn dĩ mình giàu năng lực nhất.
Trong khi đó, ở lĩnh vực âm nhạc, phê bình còn thảm hại hơn khi tuyệt nhiên không còn mấy bài viết phê bình âm nhạc đúng nghĩa. Thi thoảng, có khi là cả tháng trời mới có một bài phân tích về một ca khúc mới của nhà phê bình Nguyễn Quang Long được đăng tải ở một tờ báo cũng ít bạn đọc. Trớ trêu thay, lĩnh vực âm nhạc lại chính là lĩnh vực được dư luận quan tâm đông đảo hơn cả và đang tồn tại rất nhiều vấn đề rất cần sự lên tiếng của phê bình.
Đơn cử, trong phong trào ngày càng phổ biến là việc dàn dựng các vở musical trong khoảng hơn 2 năm qua, rất nhiều người đã dùng sai thuật ngữ cho loại hình sân khấu này. Đại đa số đều cẩu thả dùng một thuật ngữ là “nhạc kịch” để ám chỉ musical trong khi thuật ngữ này đã và vẫn được dùng cho opera suốt gần 1 thế kỷ qua.
Giữa opera và musical có rất nhiều khác biệt và khi dùng chung một thuật ngữ, chắc chắn sẽ dẫn tới sự lầm lẫn cho khán giả. Có một số ít những nhạc sĩ lên tiếng kêu gọi sử dụng thuật ngữ “ca vũ kịch” hoặc “nhạc kịch bình dân”, “nhạc kịch phổ thông” đối với musical nhằm phân biệt với “nhạc kịch” (opera).
Tuy nhiên, việc lên tiếng của họ trở nên yếu ớt và lạc lõng khi những nhà nghiên cứu âm nhạc, nhà soạn nhạc, nhạc sĩ có uy tín giữ im lặng vì cho rằng “thôi, nói ra để làm gì, cũng có thay đổi được đâu” bất chấp họ thừa nhận việc phân biệt 2 khái niệm như trên là đúng đắn. Đây là một thái độ thực sự nguy hiểm đối với âm nhạc vì nó cho thấy sự vô trách nhiệm của giới phê bình.
Khi phê bình im tiếng, nghệ thuật sẽ bị thả nổi và không được phát triển, nuôi dưỡng một cách lành mạnh. Thay vào đó, sẽ chỉ có những tranh cãi vô bổ xoay quanh những thứ vô bổ, thậm chí là nhảm nhí.
Phê bình phóng chiếu đời sống văn nghệ và đã đến lúc cần phải thay đổi tình trạng vắng mặt một cách đáng ngại của phê bình. Ở vấn đề này, báo chí cũng nên đảm lãnh một phần trách nhiệm khi đã quá lâu rồi, báo chí không dành một vị trí xứng đáng, với đãi ngộ xứng đáng cho những bài phê bình nghiêm túc.




























