Truyện ngắn: Làm gương

Tôi xin kể ra đây câu chuyện của mẹ và chị gái mình để khẳng định rằng, cuộc sống này còn nhiều lắm những tấm lòng tận hiếu.

Tuần trước xuống phố, tôi nhìn thấy cô học trò cũ (em bỏ học cách đây 2 năm, hồi đó em mới học lớp 7) dắt tay bà ngoại đi lang thang trước cổng chợ, tay cầm chiếc ca nhôm. Tôi bỏ đồng tiền vào ca, em vội cảm ơn rồi hỏi cô đi đâu, tôi trả lời chở mẹ đi mua đồ giỗ bà nội.

Cô học trò “dạ” xong thì tôi nghe tiếng làu bàu của bà ngoại cô bé: “Vì bà ấy chết rồi, vì không ăn được nên mới mâm cao cỗ đầy cúng kiến chứ còn mạnh khỏe ăn được mà coi, có đứa nào nó cho cái gì!”. Tôi nghe, không lấy làm khó chịu mà thông cảm với nỗi niềm đó vì đương nhiên rồi, bà phẫn nộ như thế cũng phải, bà và cháu gái bị chính con bà đẩy ra đường làm ăn mày mà. Tôi phải đứng lại, nhìn theo một cách xót xa.

Hình ảnh bà cháu cô học trò cũ làm tôi nhớ những câu chuyện gây xôn xao cộng đồng mạng một dạo gần đây. Đại khái con cái bất kính với cha mẹ, tệ hơn, là sự độc ác, bạo hành tàn bạo với đấng sinh thành của chính mình. Lẽ nào…? Nhiều người cho rằng, chữ hiếu đang bị rẻ rúng theo ngày tháng.

Những đứa con quên đi nguồn cội, quên công lao dưỡng dục như biển trời của cha mẹ. Không, tôi không bi quan đến vậy, tôi vẫn đinh ninh nghĩ những đứa con bất nhẫn như thế không nhiều, đã là ngoại lệ thì điều gì/ở đâu chẳng có. Bởi tôi tin bậc làm cha làm mẹ nào cũng hiểu rằng con cái bất hiếu là nỗi bất hạnh lớn của gia môn nên ai cũng muốn dạy con hiếu thuận.

Mà một nguyên tắc gần như luôn đúng trong giáo dục đạo đức là người đi trước phải làm gương cho kẻ đi sau, để tránh cái họa “xe trước đổ đâu xe sau đổ đó”. Để minh họa cho những lí lẽ vừa rồi, tôi xin kể ra đây câu chuyện của mẹ và chị gái mình để khẳng định rằng, cuộc sống này còn nhiều lắm những tấm lòng tận hiếu.

1. Chuyện của má

Khi còn là một bào thai thì má đã mồ côi cha. Sinh con xong, bố chồng (ông nội của má) bắt con dâu tái giá liền, vậy là bà ngoại phải đành đoạn đi lấy chồng khác khi chiếc khăn tang trên đầu còn mới rượi. Đau nhất là đứt ruột bỏ lại đứa con còn đỏ hỏn cho ông bà nội nuôi.

Ông cố tôi khó tính, khắt khe không ai bằng, má kể vậy. Má bảo, tuổi thơ của mình đắng cay lắm. Nứt mắt ra đã đi làm mướn. Lúc nhỏ đi ẵm con cho nhà người ta chỉ để có cơm ăn, nách em mà cái hông nổi hột nổi hạt, chai cứng. Lớn một chút thì nai lưng mà làm, từ vào rừng kiếm củi, mót lúa, mót mì, cắt lúa mướn, phụ hồ… nói chung chuyện gì làm được là má làm tất.

Má kể, ông cố rất chi độc đoán, mọi việc trong nhà nhất nhất phải theo ý ông. Má nhiều lần xin đi học nhưng ông hét: “Con gái biết chữ làm gì, để viết thư cho bồ rồi sinh hư sinh hỏng phỏng?”. Thế là má một chữ bẻ đôi không biết. Ngày Tết, má xin may một bộ đồ mới.

Ông cố la, nhà không có tiền mua mắm mua gạo mà quần với áo? Bà cố thấy tội cô cháu dậy thì bèn lén chồng lấy cái dao nhíp (dao nhỏ, cắt vải được nhưng không phải kéo) cắt may cho má một tấm áo mới, má phải căng mũi hít đầy mùi thơm của vải mới cho đã, nhưng khi mặc vào chiếc áo xách ngược thiếu nước ló rốn nên mỗi khi mặc phải ngậm ngùi thường xuyên kéo áo và tìm cách che bụng.

Đó là bộ đồ mới, để dành cho dịp hiếu hỉ, lễ nghĩa chứ bình thường má chỉ hai bộ đồ. Mặc bộ nọ giặt bộ kia, đi làm mướn nơi đất đỏ mùa mưa, lỡ trượt té dính bùn đỏ ối, má phải mặc nguyên đồ chà rửa rồi ra đứng hong gió mãi cho khô. Tối đi làm về, quần còn vén tới bẹn đã lăn ra ngủ vì mệt, đất cát rơi vãi trên miếng chiếu rách – má kể rồi cười.

Lại nói chồng mới của bà ngoại là một địa chủ giàu có nhưng keo kiệt kiết sỉ, lại thêm sự hung hãn. Chắc vì sợ lão chồng ác bá mà má tôi chưa một lần được mẹ ruột gửi cho đồng quà, tấm bánh. Tuổi thơ có mẹ cũng như không nên trầy trụa, bầm dập trong mồ hôi, nước mắt.

Bầm trầy rồi cũng lớn, má ưng ba, cũng một chàng trai mồ côi mồ cút. Số má khổ, lấy chồng đã không có chỗ dựa lại phải trở thành trụ cột. Bà Năm trong xóm thấy má là chắp hít: Nó dòng lim vàng nên không mối mọt, giỏi chưa từng thấy… Vâng, giỏi chưa từng thấy. Tôi không dám hình dung mình sẽ thế nào nếu ở trong hoàn cảnh má.

Những năm kháng chiến, ba hay vắng nhà. Má làm ruộng, nuôi ăn nuôi học bầy con chín đứa. Cày, sạ, be bờ, cuốc góc, vãi phân, nhổ cỏ, cấy dặm, cắt lúa, gánh gồng, phơi rơm, nuôi bò, kéo cộ… Tất tật. Việc gì của nhà nông má cũng đều làm được, làm giỏi. Quanh năm gò lưng trên đồng, má luôn trong tư thế “lão nông tri điền”.

Trên vai không vác cày mang cuốc thì kẽo kẹt quang gánh. Tay không cầm liêm thì hông cũng kẹp thúng. Khi mấy sợi rơm khô quấn tóc, lúc trong túi rơi ra mấy hạt lúa, móng tay móng chân vàng khè, miếng cơm cũng trạo trạo nuốt chứ không kịp… nhai.

Má là vậy, không có khái niệm nghỉ ngơi. Tin không, má mang thai tôi tháng thứ chín nhưng gặp mùa lúa vẫn cứ tỉnh bơ ra đồng, dù trời đổ mưa. Má nói, trước là coi sóc đám ruộng đang thuê người cắt, sau tranh thủ xin gánh rơm, thêm được nắm nào đỡ nắm nấy chứ chui vô hóc nằm mà bò thiếu rơm là tiêu.

Cảnh một phụ nữ vác cái bụng thè lè ra đồng, chắc là bất nhẫn quá nên ruộng nhà được cô bác làm gọn gàng đâu đó. Còn đôi gióng, không cần xin cũng có người nhét đầy rơm. Má phải bám chân trên bờ ruộng ướt mưa, nặng nề bước.

Chưa ra khỏi đồng thì bụng co lên đau quặn, má bình tĩnh đặt gánh xuống đứng thở, không kịp rồi, má đẻ tôi ngoài đường. (Cứ hình dung cảnh một phụ nữ tới phút lâm bồn vẫn ra đồng và sinh con bên bờ ruộng mới thấy hết nghĩa của từ cơ cực).

Không phải mỗi tôi mà bầy con chín đứa, má nói làm tới chừng nào đẻ mới được nằm xuống giường. Giáp tháng là lo đứng dậy ra đồng liền.

Con đông lại trông chờ mỗi má nên nhà tôi nghèo lắm. (Sau giải phóng ba tôi có một đận vắng nhà chừng hai năm). Lúa nhà làm, hạt tròn mẩy bán lo tiền học cho các con, còn lúa mót xay gạo nát vụn thì để ăn. Chị em tôi nhăn nhó khi nhai cơm gặp sạn, má bảo ráng, sau này bớt khổ thì để gạo mót nấu cháo cho… heo. Đấy là lần trong bữa cơm mà tôi rớt nước mắt.

Sau này ông cố bị tai biến, nằm liệt giường hơn hai năm. Má vẫn sớm hôm đi về, hỏi han chăm sóc. Bà cố già, lại bị Parkinson nên tay run lẩy bẩy, vậy là việc vệ sinh lau chùi cho cố hầu như má dành làm hết, nhà cửa tinh tươm, giường bệnh thơm tho sạch sẽ.

Má đút từng thìa cháo cho cố, vừa lo chăm sóc gia đình với một bầy con nheo nhóc, vừa nuôi một người ốm nằm sát chiếu, chuyện không đơn giản một chút nào. Ba tôi kể, những ngày cuối đời cố ốm nặng, không thể đại tiện như người bình thường được, mỗi lần cố kêu muốn đi ngoài thì má phải đưa tay vào hậu môn giúp.

Ông cố bà cố qua đời, má lo ma chay, giỗ chạp chu đáo cho tới bây giờ. Biết cố hảo ngọt, năm nào giỗ cố chị em tôi cũng được ăn chè đậu ván.

Cố mất rồi tới cha dượng ốm, má vẫn đi về thăm nom. Không phải mua bánh trái tới hỏi thăm qua quýt rồi về mà má mua con cá chép to đến thăm, rồi xuống bếp lụi cụi, bưng lên tô cháo thơm phức. (Má vẫn lễ phép gọi chồng mới của ngoại là ba). Biết bà ngoại đau lưng khó ngồi nên má sẵn sàng giặt đồ bệnh cho ông ấy.

Nói thành ra chỗ nhỏ mọn mà vẫn vạch áo cho người xem lưng nhưng đúng là có lúc chị em tôi nhăn nhó. Đặc biệt là tôi, tôi nói: “Thứ đồ hôi hám sao má không đem ra mương trước nhà, lấy cây đập sạch rồi treo lên, người ta vẫn làm vậy mà, má thì cứ khom lưng khom cổ lấy tay vò, ổng có yêu thương gì cho cam mà tận tụy cái chuyện dông dông”.

Má cười hiền nói: “Chuyện gì thấy đúng thì làm, đừng cố truy tìm quá khứ để thù hằn hiện tại”. Đặc biệt sau này bà ngoại bệnh, dù đời sau của ngoại con đông nhưng người túc trực bên giường của ngoại là má. Lại tôi xót má thức khuya dậy sớm nên khó chịu nhắc lại quá khứ bị bỏ rơi, má nói: “Hoàn cảnh cả, chứ có bà mẹ nào muốn bỏ con”. Biết vậy cũng đâu có nghĩa má phải tận hiếu cho cực thân. Má nói: “Thân làm mẹ không hiếu thảo sao làm gương cho bầy con?”.

2. Chuyện của chị Hai

Chị tôi lấy chồng, nhà anh rể tôi nghèo lại đơn chiếc, một mẹ một con. Thật xin lỗi, khi nói sau lưng người quá cố nhưng đúng là mẹ chồng chị thuộc tầm “đời xưa mấy mặt đời này mấy gan”.

Hay là giải thích kiểu tâm linh để an ủi mình là do khắc tuổi, khắc cung mạng, khắc tướng, khắc tinh… Tóm lại khắc gì không biết, chỉ biết từ ngày về làm dâu, chị khổ sở trăm bề.

Nếu xin phép về thăm mẹ đẻ, dù gật đầu nhưng mới ra khỏi cửa đã nghe mẹ chồng gọi ba hồn chín vía, bà đinh ninh con dâu lén lút giấu đút về cho mẹ đẻ. Bà la to:

- Mày khôn hồn thì kiếm vợ khác đi con ạ! Con này là mối chứ không phải mọt đâu, nó sẽ ăn sập nhà mày đấy!

Anh con trai “xót” vợ, nói đỡ một lời, bà sẽ la toáng lên:

- Mày bắc thang để con vợ mày leo lên đầu tao ngồi phỏng?

Nếu có chuyện gì không vừa ý, đang đêm bà vẫn lôi đầu ra giữa sân, túm tóc cầm chổi đập bành bạch vào người…

Rồi bà đâu có khỏe mạnh mãi để ra “oai” với con dâu. Bà bị tai biến, miệng méo xệch, nằm một chỗ lú lẫn. Bà nằm ỉa đái một chỗ đúng hai năm. Hễ có việc ra khỏi nhà, lúc về sẽ nghe mùi hôi thối xộc đến nghẹt thở.

Chị lật đật lao vào tắm rửa giặt giũ, giường chiếu lại thơm tho. Hàng ngày, khó khổ đút từng thìa thuốc, bón từng muỗng cháo. Quần áo dính đầy cứt đái chị vẫn vò bằng tay chứ không xin đồ cũ, đồ dơ cho mặc rồi đem vứt như người ta bày.

Hàng xóm khen chị có hiếu với mẹ chồng, hiền lành không biết oán hận. Chị “thanh minh” bằng câu chuyện, ngày xưa có một người con trai nuôi ba. Khi ông nội già yếu, tay chân bị run nên khi ăn hay vung vãi và làm bể chén.

Người con trai bèn lấy cái gáo dừa làm chén cho ông ăn. Vài hôm sau ông cha thấy đứa con nhỏ lấy cái vỏ dừa gọt thành cái chén. Ông hỏi con làm gì đó, đứa bé trả lời: “Con làm cái chén sẵn cho bố để mai kia bố già như ông nội thì bố dùng làm chén ăn cơm!”.

Chị bảo sau này mình sẽ có tới bốn nàng dâu nên phải lo làm gương…

Truyện ngắn của Nguyễn Thị Bích Nhàn (Giáo viên Trường THCS Trần Hưng Đạo, thị xã Đông Hòa, Phú Yên)

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/truyen-ngan-lam-guong-post721921.html
Zalo