Trường hợp chưa giải quyết nghỉ việc khi tinh gọn bộ máy
Bộ Nội vụ đã có tờ trình Chính phủ về dự thảo Nghị định về chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khi tinh gọn bộ máy.
Mới đây, Bộ Nội vụ đã có tờ trình Chính phủ về dự thảo Nghị định về chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
Dưới đây là các chính sách, chế độ tại dự thảo Nghị định được xây dựng trên cơ sở kế thừa Nghị định số 29/2023/NĐ-CP nhưng mức trợ cấp cao hơn để động viên cán bộ, công chức, viên chức và người lao động nghỉ việc.
Các trường hợp chưa giải quyết nghỉ việc
Căn cứ quy định tại Điều 59 của Luật Cán bộ, công chức và quy định của Đảng; kế thừa Nghị định số 29/2023/NĐ-CP ngày 03/6/2023 của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế (sau đây viết tắt là Nghị định số 29/2023/NĐ-CP), dự thảo Nghị định quy định các trường hợp chưa giải quyết nghỉ việc, gồm: cán bộ, công chức, viên chức và người lao động là nữ đang trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản, đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, trừ trường hợp cá nhân tự nguyện nghỉ việc; những người đang trong thời gian xem xét kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị thanh tra, kiểm tra do có dấu hiệu vi phạm.
Chính sách, chế độ đối với người nghỉ hưu trước tuổi
Trường hợp có tuổi đời đủ 10 năm trở xuống so với tuổi nghỉ hưu trong điều kiện lao động bình thường và đủ 5 tuổi trở xuống so với tuổi nghỉ hưu trong điều kiện làm việc ở vùng đặc biệt khó khăn và đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc để nghỉ hưu thì được hưởng 3 chế độ như sau.
Một là, được hưởng trợ cấp hưu trí một lần cho thời gian nghỉ sớm. Trường hợp nghỉ trong thời hạn 12 tháng thì được hưởng trợ cấp: Nếu có tuổi đời còn dưới 5 năm đến tuổi nghỉ hưu, được hưởng trợ cấp bằng 1 tháng tiền lương hiện hưởng nhân với số tháng nghỉ sớm. Nếu có tuổi đời còn từ đủ 5 năm đến đủ 10 năm đến tuổi nghỉ hưu, được hưởng trợ cấp bằng 0,9 tháng tiền lương hiện hưởng nhân với số tháng nghỉ sớm (tối đa là 60 tháng).
Trường hợp nghỉ từ tháng thứ 13 trở đi thì được hưởng bằng 0,5 mức trợ cấp của trường hợp nghỉ trong 12 tháng nêu trên (bằng 0,5 hoặc 0,45 tháng lương hiện hưởng).
Hai là, được hưởng chính sách nghỉ hưu trước tuổi, gồm được hưởng lương hưu và không bị trừ tỷ lệ lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi.
Được hưởng trợ cấp nghỉ hưu trước tuổi, gồm: Đối với người còn từ đủ 2 năm đến đủ 5 năm đến tuổi nghỉ hưu thì được trợ cấp bằng 5 tháng tiền lương hiện hưởng cho mỗi năm nghỉ sớm; đối với người còn trên 05 năm đến đủ 10 năm đến tuổi nghỉ hưu thì được trợ cấp bằng 4 tháng tiền lương hiện hưởng cho mỗi năm nghỉ hưu sớm. Được hưởng trợ cấp theo thời gian công tác có trên 20 năm đóng bảo hiểm xã bắt buộc.
Ba là, trường hợp thuộc đối tượng khen thưởng cống hiến tại Nghị định số 98/2023/NĐ-CP ngày 31/12/2023 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng (sau đây gọi tắt là Nghị định số 98/2023/NĐ-CP) mà còn thiếu thời gian giữ chức vụ lãnh đạo tại thời điểm nghỉ hưu để được khen thưởng cống hiến thì được tính thời gian nghỉ hưu sớm cộng với thời gian giữ chức vụ lãnh đạo để xét khen thưởng cống hiến theo quy định tại 98/2023/NĐ-CP hoặc xem xét các hình thức khen thưởng phù hợp với thành tích đạt được.
Chính sách đối với cán bộ được kéo dài thời gian công tác
Cán bộ đã quá tuổi nghỉ hưu nhưng được Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định kéo dài thời gian công tác làm việc trong các cơ quan đặc thù của Đảng và Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, nếu nghỉ hưu thì được trợ cấp hưu trí một lần bằng 30 tháng tiền lương hiện hưởng và hưởng chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.
Chính sách, chế độ nghỉ thôi việc đối với cán bộ, công chức, bao gồm cả cán bộ, công chức cấp xã
Cán bộ, công chức có tuổi đời còn đủ 2 tuổi trở lên đến tuổi nghỉ hưu và không đủ điều kiện hưởng chính sách, chế độ nghỉ hưu trước tuổi, nếu nghỉ thôi việc thì được hưởng các chế độ.
Cụ thể, được hưởng trợ cấp thôi việc: Trường hợp nghỉ thôi việc trong thời hạn 12 tháng thì được hưởng trợ cấp bằng 0,8 tháng tiền lương hiện hưởng nhân với số tháng tính hưởng trợ cấp thôi việc; trường hợp nghỉ từ tháng thứ 13 trở đi thì được hưởng bằng 0,4 tháng tiền lương hiện hưởng nhân với số tháng tính hưởng trợ cấp thôi việc (tối đa là 60 tháng).
Được trợ cấp 1,5 tháng tiền lương hiện hưởng cho mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Được bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội hoặc hưởng bảo hiểm xã hội một lần theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; được trợ cấp 3 tháng tiền lương hiện hưởng để tìm việc làm.
Chính sách, chế độ nghỉ thôi việc đối với viên chức và người lao động, không bao gồm người làm việc ở các đơn vị sự nghiệp công lập khác
Viên chức và người lao động nghỉ thôi việc được hưởng 4 chế độ như cán bộ, công chức nghỉ thôi việc nhưng khác chế độ thứ 4 là viên chức và người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp do quỹ Bảo hiểm thất nghiệp chi trả (thay cho trợ cấp 3 tháng tiền lương hiện hưởng để tìm việc làm đối với cán bộ, công chức do ngân sách nhà nước chi trả).
Chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý tiếp tục làm việc nhưng thôi giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc được bầu cử, bổ nhiệm vào chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý thấp hơn)
Khi thôi giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc được bầu cử, bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý thấp hơn thì được bảo lưu mức lương chức vụ hoặc phụ cấp chức vụ lãnh đạo cũ đến hết nhiệm kỳ bầu cử hoặc thời hạn giữ chức vụ. Trường hợp đã giữ chức vụ theo nhiệm kỳ bầu cử hoặc thời hạn bổ nhiệm còn dưới 6 tháng thì được bảo lưu 6 tháng.
Dự thảo nêu rõ Bộ Chính trị đã “Đồng ý chủ trương chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động chịu tác động do sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị”; “Giao Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo tiếp thu ý kiến của Bộ Chính trị, ý kiến góp ý hợp lý của các cơ quan để khẩn trương hoàn thiện dự thảo Nghị định và ban hành trong năm 2024”.
Theo đó, thực hiện ý kiến chỉ đạo ngày 25/12/2024 của Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình, Bộ Nội vụ đã hoàn thiện dự thảo Nghị định và gửi Bộ Tư pháp thẩm định theo trình tự, thủ tục rút gọn theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.