Trường ĐH nêu những điều kiện cấp bách để đào tạo ít nhất 35.000 nhân lực đường sắt từ nay đến 2030
Theo PGS.TS Bùi Phú Doanh, để đạt được mục tiêu trên, cần có chính sách đầu tư trọng điểm cho các cơ sở đào tạo đường sắt đầu ngành.
Phó Thủ tướng Lê Thành Long đã ký Quyết định số 2230/QĐ-TTg ngày 09/10/2025 phê duyệt Đề án đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đường sắt Việt Nam đến năm 2035, định hướng đến năm 2045.
Đề án đề ra các mục tiêu, định hướng cụ thể cùng các nhiệm vụ và giải pháp nhằm đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đường sắt đáp ứng yêu cầu triển khai các dự án đường sắt tốc độ cao, đường sắt quốc gia điện khí hóa và đường sắt đô thị. Đồng thời, từng bước tiếp nhận, làm chủ công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp đường sắt hiện đại, tự chủ và bền vững.
Theo lãnh đạo một số cơ sở giáo dục đại học, đề án là bước đi chiến lược và mang lại động lực lớn để các cơ sở giáo dục đào tạo bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành đường sắt.
Nền tảng để hình thành nguồn nhân lực có khả năng làm chủ công nghệ đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Phương - Hiệu trưởng Trường Đại học Giao thông Vận tải Thành phố Hồ Chí Minh đánh giá cao ý nghĩa chiến lược và tầm nhìn dài hạn của Đề án đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đường sắt Việt Nam đến năm 2035, định hướng đến năm 2045.
Theo thầy Phương, đề án không chỉ đặt nền móng cho ngành đường sắt phát triển hiện đại, tự chủ và bền vững, mà còn đáp ứng các yêu cầu triển khai dự án đường sắt tốc độ cao, điện khí hóa, đường sắt đô thị và hội nhập công nghệ quốc tế.
Đối với Trường Đại học Giao thông Vận tải Thành phố Hồ Chí Minh, đề án là động lực để nhà trường nâng cao chất lượng đào tạo, mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp nhận chuyển giao công nghệ và phát triển các chương trình đào tạo đội ngũ kỹ sư, chuyên gia trong lĩnh vực đường sắt tốc độ cao.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Phương - Hiệu trưởng Trường Đại học Giao thông Vận tải Thành phố Hồ Chí Minh.Ảnh website nhà trường.
Theo đề án, mục tiêu cụ thể giai đoạn 2025-2030, đào tạo ít nhất 35.000 nhân lực, tập trung đào tạo nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu triển khai các dự án đường sắt tốc độ cao, đường sắt điện khí hóa, đường sắt đô thị và bổ sung nguồn nhân lực giảng dạy cho các cơ sở đào tạo.
Giai đoạn 2031-2035, đào tạo ít nhất 70.000 nhân lực, tăng cường đào tạo nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu triển khai các dự án đường sắt tốc độ cao, đường sắt quốc gia điện khí hóa, đường sắt đô thị và bổ sung nguồn nhân lực giảng dạy cho các cơ sở đào tạo.
Đến năm 2045, hình thành trung tâm đào tạo, chuyển giao công nghệ đường sắt hiện đại trong khu vực.
Theo thầy Nguyễn Xuân Phương, để đạt được những mục tiêu về đào tạo nhân lực của đề án, các cơ sở đào tạo cần xây dựng hệ sinh thái đào tạo hiện đại, hợp tác sâu rộng với doanh nghiệp, viện nghiên cứu quốc tế để cập nhật công nghệ.
Đồng thời, phát triển chương trình lý thuyết gắn liền thực tiễn, mở rộng các học kỳ doanh nghiệp, giao lưu quốc tế và chủ động tiếp nhận chuyển giao công nghệ.
Ngoài ra, khi Việt Nam hình thành trung tâm đào tạo và chuyển giao công nghệ đường sắt hiện đại trong khu vực, vị thế quốc gia sẽ được nâng lên. Từ đó, Việt Nam có thể làm chủ công nghệ, xuất khẩu chuyên gia và đóng vai trò trung tâm kết nối phát triển ngành đường sắt với các nước lân cận.
Cùng chung quan điểm, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Phú Doanh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Xây dựng Hà Nội bày tỏ, đề án là một bước đi chiến lược, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa và tái cấu trúc ngành đường sắt Việt Nam. Với định hướng đến năm 2045, đề án không chỉ tập trung vào đào tạo nhân lực kỹ thuật – vận hành mà còn hướng tới phát triển toàn diện hệ sinh thái tri thức, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực đường sắt. Đây là nền tảng để hình thành đội ngũ kỹ sư, chuyên gia có khả năng làm chủ công nghệ đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị.
Bên cạnh đó, đề án cũng mở ra cơ hội để nhà trường khẳng định vai trò nòng cốt trong đào tạo và nghiên cứu các lĩnh vực then chốt liên quan đến hạ tầng giao thông, đặc biệt là kỹ thuật đường sắt hiện đại.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Phú Doanh – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Xây dựng Hà Nội. Ảnh: Lưu Diễm.
Thầy Doanh cũng cho rằng, để đạt được các mục tiêu về nguồn nhân lực trong đề án, cần triển khai đồng bộ ba nhóm điều kiện và giải pháp then chốt.
Thứ nhất, phải có chính sách đầu tư trọng điểm cho các cơ sở đào tạo đầu ngành để xây dựng trung tâm mô phỏng, thí nghiệm, thực hành tích hợp, ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI), mô hình song sinh số (Digital Twin) trong thiết kế, vận hành và bảo trì hệ thống đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị. Đây là nền tảng để nâng chất lượng đào tạo gắn liền với thực tiễn dự án.
Thứ hai, phát triển đội ngũ giảng viên, chuyên gia và nhà nghiên cứu đầu ngành, có năng lực giảng dạy và nghiên cứu bằng tiếng Anh, có thể tham gia trực tiếp vào các chương trình chuyển giao công nghệ quốc tế. Đồng thời, cần khuyến khích học viên, kỹ sư trẻ được tham gia các dự án lớn trong nước và quốc tế để sớm hình thành đội ngũ kế cận chất lượng cao.
Thứ ba, xây dựng mô hình liên kết 3 nhà: Nhà nước – Doanh nghiệp – Cơ sở đào tạo. Trong đó, nhà nước định hướng chiến lược và đầu tư hạ tầng; doanh nghiệp tham gia đặt hàng, tài trợ học bổng, cung cấp môi trường thực hành; còn các trường đại học chịu trách nhiệm đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ.
Đặc biệt, nếu hình thành được trung tâm đào tạo và chuyển giao công nghệ đường sắt hiện đại, Việt Nam không chỉ chủ động về nhân lực và công nghệ trong các dự án trọng điểm quốc gia, mà còn có thể xuất khẩu chuyên gia, kỹ sư trình độ cao cho khu vực ASEAN và châu Á. Điều này giúp nâng tầm vị thế quốc gia từ “người học công nghệ” trở thành “đối tác chuyển giao công nghệ” trong lĩnh vực đường sắt hiện đại.
Việc hợp tác công tư còn khó khăn, trường đại học nỗ lực thực hiện các mục tiêu của đề án
Đáng chú ý, đề án cũng đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp, trong đó có việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đường sắt; tăng cường huy động, đa dạng hóa nguồn lực đầu tư và tăng cường hợp tác công tư cho đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đường sắt.
Theo quan điểm của thầy Nguyễn Xuân Phương, việc đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ, hợp tác quốc tế và công - tư giúp ngành đường sắt bổ sung thêm tri thức mới, nâng cao năng lực cán bộ, tạo cơ hội học tập, thực hành với chuyên gia hàng đầu, đồng thời huy động nguồn lực đầu tư đa dạng hóa đào tạo chuyên sâu, tăng cường kết nối ngành với thị trường quốc tế.
Song, rào cản ngôn ngữ, khác biệt chương trình đào tạo, cơ chế đầu tư còn phân tán, thiếu ưu đãi, và sự kết nối chưa liên tục là những thách thức đối với các đơn vị đào tạo nhân lực đường sắt.
Để vượt qua những thách thức trên, các cơ sở đào tạo ngành đường sắt cần tăng cường hợp tác song phương, xây dựng chính sách đặc thù.
Bên cạnh đó, cần chủ động tạo môi trường trao đổi học thuật, thúc đẩy học kỳ doanh nghiệp tại nước ngoài, cũng như vận dụng sáng tạo mô hình hợp tác công - tư.
Còn theo thầy Bùi Phú Doanh, hợp tác quốc tế và hợp tác công – tư (PPP) là hai trụ cột quan trọng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đường sắt Việt Nam. Nhờ hợp tác quốc tế, các cơ sở đào tạo có thể tiếp nhận công nghệ hiện đại về thiết kế, tín hiệu, điện khí hóa, điều khiển và vận hành hệ thống đường sắt tốc độ cao, đồng thời chuẩn hóa chương trình giảng dạy và khung năng lực nghề nghiệp theo tiêu chuẩn châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc.
Việc đẩy mạnh mô hình PPP trong đào tạo cho phép huy động nguồn lực từ doanh nghiệp và xã hội, giúp sinh viên được tiếp cận công nghệ, thiết bị thực tế và môi trường làm việc chuyên nghiệp ngay trong quá trình học tập. Mô hình này cũng mở ra cơ chế doanh nghiệp đặt hàng đào tạo, hỗ trợ học bổng, tham gia đồng giảng dạy, giúp người học được thực hành và có cơ hội việc làm rõ ràng sau khi tốt nghiệp.
Tuy nhiên, hiện một số đơn vị đào tạo lĩnh vực đường sắt, trong đó có nhà trường vẫn gặp nhiều rào cản trong hợp tác quốc tế và PPP.
Trước hết, thiếu hành lang pháp lý và cơ chế tài chính rõ ràng cho mô hình hợp tác công – tư trong giáo dục đại học. Bên cạnh đó, còn có sự khác biệt về tiêu chuẩn kỹ thuật của các đơn vị đào tạo trong nước với các đối tác nước ngoài.
Ngoài ra, thiếu nhân lực có năng lực nghiên cứu, giảng dạy và hợp tác bằng tiếng Anh trong các lĩnh vực chuyên sâu như điện khí hóa, tín hiệu, vận hành đường sắt.
Để khắc phục những khó khăn trên, cần sớm ban hành khung pháp lý riêng cho PPP trong đào tạo nhân lực kỹ thuật, đặc biệt trong lĩnh vực hạ tầng giao thông. Đồng thời, nên xây dựng Quỹ phát triển nhân lực đường sắt quốc gia, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho đào tạo và nghiên cứu.

Trường Đại học Giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh ký kết hợp tác với Trường Bách khoa Sơn Đông và HollySys Bắc Kinh (Trung Quốc) trong lĩnh vực đường sắt tốc độ cao. Ảnh NTCC
Cũng theo thầy Doanh, Trường Đại học Xây dựng Hà Nội đang đề xuất thành lập Trung tâm Đào tạo – Nghiên cứu và Chuyển giao công nghệ đường sắt tốc độ cao, làm đầu mối hợp tác quốc tế giữa Việt Nam và các nước có công nghệ tiên tiến. Trung tâm này sẽ là “cầu nối” để tiếp nhận, chuyển giao, nội địa hóa công nghệ. Đồng thời, đào tạo giảng viên, kỹ sư và chuyên gia đạt chuẩn khu vực, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu của đề án.
Chia sẻ về tình hình đào tạo ngành đường sắt tại đơn vị, thầy Doanh cho biết, nhà trường đã triển khai chương trình Kỹ thuật xây dựng công trình giao thông – chuyên ngành Đường sắt tốc độ cao và Đường sắt đô thị từ năm 2024 theo định hướng STEM, kết hợp mô phỏng, thí nghiệm thực tế và thực hành tại doanh nghiệp. Nhà trường đang hợp tác với Ban Quản lý đường sắt đô thị Hà Nội, Ban Quản lý dự án đường sắt Bộ Xây dựng, các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực xây dựng Vinaconex, Conico…, cùng các trường đại học quốc tế trong khối AUF (Pháp), các trường đại học đào tạo đường sắt tốc độ cao Xinan Jiaotong, Tongji (Trung Quốc) và Tokyo (Nhật Bản). Tuy nhiên, khó khăn lớn hiện nay là thiếu trang thiết bị mô phỏng hiện đại, tuyển sinh còn hạn chế và cơ chế tài chính hợp tác chưa đủ linh hoạt.

Cán bộ, giảng viên, sinh viên Khoa Cầu đường, Trường Đại học Xây dựng Hà Nội trong chuyến tham quan công trường đoạn tuyến đi ngầm thuộc Dự án Đường sắt đô thị Nhổn – Ga Hà Nội nhằm hỗ trợ công tác đào tạo nhân lực ngành "Đường sắt tốc độ cao và Đường sắt đô thị. Ảnh website nhà trường.
Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Xây dựng Hà Nội cũng cho hay, nhà trường đã xác định ba định hướng trọng tâm trong triển khai Đề án đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đường sắt Việt Nam đến năm 2035, định hướng 2045.
Thứ nhất, nhà trường đang rà soát, cập nhật và chuẩn hóa toàn bộ chương trình đào tạo chuyên ngành đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị theo chuẩn kiểm định chất lượng AUN-QA. Chương trình được thiết kế theo hướng liên thông, hội nhập quốc tế, có thể chuyển đổi tín chỉ và công nhận lẫn nhau với các đại học đối tác trong khu vực.
Thứ hai, tập trung đầu tư cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm chuyên ngành, trung tâm mô phỏng vận hành đường sắt điện khí hóa và triển khai chuyển đổi số trong giảng dạy, học tập, tạo môi trường đào tạo hiện đại, kết nối trực tiếp với hệ thống dự án thực tế.
Thứ ba, phát triển mô hình liên kết ba nhà: Nhà nước – Doanh nghiệp – Nhà trường, trong đó doanh nghiệp tham gia đặt hàng đào tạo, cung cấp học bổng, đồng giảng dạy và tiếp nhận sinh viên thực tập. Nhà trường đóng vai trò cầu nối, đưa kiến thức hàn lâm vào ứng dụng thực tiễn.
Ngoài ra, Trường Đại học Xây dựng Hà Nội cũng đặt mục tiêu đến năm 2035 trở thành trung tâm đào tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ đường sắt hàng đầu khu vực ASEAN, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Đề án, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh và vị thế của Việt Nam trong chuỗi cung ứng công nghệ – nhân lực giao thông hiện đại.
Trong khi đó, thầy Nguyễn Xuân Phương cho biết, Trường Đại học Giao thông Vận tải Thành phố Hồ Chí Minh hiện đã thiết kế khung chương trình đào tạo quốc tế ngành đường sắt với 4 chuyên ngành cốt lõi gồm: kỹ thuật xây dựng đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị, kỹ thuật điều khiển tự động và thông tin tín hiệu đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị; cơ khí đường sắt tốc độ cao và đường sắt metro; khai thác đường sắt tốc độ cao và đường sắt đô thị.
Đồng thời, trường cũng triển khai nhiều giải pháp đồng bộ với trọng tâm là 7 dự án hợp tác chiến lược cùng nhiều tập đoàn, viện nghiên cứu và trường đại học lớn ở nước ngoài. Trước đó, có 5 dự án đầu tư cơ sở vật chất với tổng kinh phí 500 tỷ đồng cho lĩnh vực đào tạo đường sắt tốc độ cao.

Ảnh minh họa. Website Trường Đại học Giao thông Vận tải Thành phố Hồ Chí Minh.
Để thực hiện các nhiệm vụ và mục tiêu của đề án, trong thời gian tới nhà trường tiếp tục triển khai các thỏa thuận hợp tác quốc tế, đầu tư trung tâm thực nghiệm kỹ thuật số, mở rộng chương trình thực hành và học kỳ doanh nghiệp.
Đồng thời, đổi mới phương pháp giảng dạy, phối hợp với doanh nghiệp ngành, liên kết viện nghiên cứu và chuyên gia quốc tế để đào tạo đội ngũ cán bộ và sinh viên đáp ứng yêu cầu thực tiễn dự án.
Nhà trường sẽ ưu tiên mở rộng quan hệ đối tác quốc tế và công tư, nâng cấp chương trình đào tạo sát thực tiễn và đẩy mạnh truyền thông về tiềm năng phát triển ngành đường sắt tốc độ cao để thu hút nguồn tuyển sinh chất lượng. Mặt khác, phát triển các trung tâm thực nghiệm, học kỳ doanh nghiệp và chương trình đào tạo quốc tế sẽ là giải pháp trọng điểm để trường vươn lên thành trung tâm đào tạo hàng đầu khu vực.
Cũng theo thầy Phương, để đạt được các nhiệm vụ và mục tiêu của đề án, các cơ sở đào tạo ngành đường sắt cần cập nhật chương trình theo chuẩn quốc tế, tăng tính thực tiễn thực hành, mở rộng hợp tác quốc tế, đặc biệt trong chuyển giao công nghệ. Đồng thời, tăng cường truyền thông nhận thức xã hội về ngành đường sắt tốc độ cao.