Tổng thuật sáng 27/11: Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật Việc làm (sửa đổi) Tổng thuật chiều 25/11: Thảo luận ở hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo
Sáng 27/11, tại Nhà Quốc hội, tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 8, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật Việc làm (sửa đổi). Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh điều hành phiên họp. Trước đó, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật phòng không nhân dân, Luật Công đoàn (sửa đổi), và biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035.
Tổng thuật chiều 25/11: Thảo luận ở hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo
8h00: Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương điều hành phiên họp
Điều hành Phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương cho biết, mở đầu chương trình làm việc sáng 27/11, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Luật Phòng không nhân dân. Trước khi tiến hành biểu quyết, Quốc hội nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Phòng không nhân dân.
8h02: Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Phòng không nhân dân
Trình bày Báo cáo tại phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Lê Tấn Tới cho biết, dự thảo Luật đã được tiếp thu, chỉnh lý gồm 7 Chương và 47 Điều.
Về nhiệm vụ phòng không nhân dân (Điều 5), Dự thảo Luật quy định lực lượng phòng không nhân dân (PKND) tham gia quản lý, bảo vệ vùng trời ở độ cao dưới 5.000m là dựa trên cơ sở nhiệm vụ, vũ khí, trang bị được biên chế, khả năng tác chiến của lực lượng PKND và quan hệ phối hợp với các lực lượng khác trong sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, phòng, chống địch tiến công đường không. Hiện nay, lực lượng PKND đã được trang bị vũ khí có tầm bắn trên 5.000m; được trang bị các phương tiện trinh sát phòng không đủ khả năng quan sát, phát hiện được mục tiêu ở độ cao dưới 5.000m. Vì vậy lực lượng PKND đủ khả năng tham gia quản lý, bảo vệ vùng trời ở độ cao dưới 5.000m. Do đó, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ quy định phạm vi quản lý ở độ cao dưới 5.000m.
Về trọng điểm phòng không nhân dân (Điều 6), việc xác định trọng điểm PKND là trên cơ sở các vị trí mục tiêu trọng yếu cần phải bảo vệ hoặc hướng chủ yếu địch đổ bộ đường không hoặc tiến công đường bộ. Việc xác định trọng điểm PKND nhằm mục đích xác định phương án bố trí lực lượng, trận địa phòng không, xác định trách nhiệm của từng cấp trong thực hiện nhiệm vụ PKND để quản lý, bảo vệ các khu vực trọng yếu về quốc phòng, an ninh, bảo đảm sẵn sàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tác chiến phòng không khi có tình huống xảy ra. Nếu xác định tiêu chí cụ thể trong Luật sẽ ảnh hưởng đến yếu tố bí mật của quyết tâm tác chiến phòng thủ. Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội không quy định cụ thể về tiêu chí trọng điểm PKND.
Về cơ quan chỉ đạo phòng không nhân dân (Điều 9), quy định như trong dự thảo Luật để bảo đảm tách bạch giữa Cơ quan chỉ đạo và Cơ quan thường trực tham mưu, giúp việc cho Ban Chỉ đạo PKND các cấp; phù hợp với Nghị định số 74/2015/NĐ-CP và không có vướng mắc. Đồng thời, để đảm bảo rõ hơn, UBTVQH đã bổ sung khoản 2 quy định: “Ban Chỉ đạo PKND được tổ chức ở trung ương, quân khu và ở địa phương. Ban chỉ đạo PKND các cấp có nhiệm vụ tham mưu, giúp Cơ quan chỉ đạo PKND cấp tương ứng.” như dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua.
Về tổ chức lực lượng phòng không nhân dân (Điều 13), hiện nay, một số cơ quan, tổ chức doanh nghiệp có tổ chức lực lượng tự vệ đã tổ chức lực lượng tự vệ phòng không, có trang bị, quản lý, hướng dẫn về PKND của cơ quan quân sự địa phương. Quy định về tổ chức lực lượng PKND trong các doanh nghiệp tại dự thảo Luật nhằm bổ sung chức năng, nhiệm vụ cho lực lượng tự vệ, không làm phát sinh chi phí tuân thủ; đồng thời, việc tổ chức bồi dưỡng, tập huấn, huấn luyện lực lượng này gắn liền với việc huấn luyện tự vệ của doanh nghiệp. Dự thảo Luật quy định chỉ cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nào có tổ chức lực lượng tự vệ thì tổ chức lực lượng PKND ở đó. Trên cơ sở ý kiến ĐBQH, để bảo đảm chặt chẽ, rõ ràng, UBTVQH đã chỉnh lý các khoản điểm cho thống nhất như dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua...
Ngoài ra, về trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng không nhân dân và quản lý tàu bay không người lái, phương tiện bay khác, tiếp thu ý kiến ĐBQH và chủ trương thực hiện các giải pháp đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, UBTVQH đã chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp với cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan nghiên cứu, rà soát các quy định liên quan đến thẩm quyền của Chính phủ, các bộ, theo đó đã bỏ Chương quản lý nhà nước (Chương VII) gồm 08 Điều; chỉ quy định chung về nội dung quản lý nhà nước tại Điều 8 (Chương I – Quy định chung).
Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới cũng cho biết, ngoài các nội dung nêu trên, UBTVQH đã chỉ đạo nghiên cứu tiếp thu đầy đủ các ý kiến khác của ĐBQH, rà soát, chỉnh lý về kỹ thuật lập pháp để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong dự thảo Luật và trong hệ thống pháp luật.
8h10: Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Phòng không nhân dân
Dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Phòng không nhân dân theo hình thức biểu quyết điện tử. Kết quả biểu quyết cho thấy, có 449/449 đại biểu biểu quyết tán thành. Như vậy, với 100% đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội đã thông qua Luật Phòng không nhân dân.
08h11: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh điều hành phiên họp
Điều hành 3 nội dung còn lại của Phiên làm việc sáng 27/11, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh cho biết, Quốc hội sẽ tiến hành biểu quyết thông qua Luật Công đoàn (sửa đổi). Trước khi tiến hành biểu quyết, Quốc hội nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Công đoàn (sửa đổi).
8h12: Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Công đoàn (sửa đổi)
Trình bày báo cáo tại phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh cho biết, trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quán triệt, chỉ đạo thực hiện chủ trương đổi mới tư duy trong xây dựng pháp luật, bảo đảm các quy định rõ ràng, thực chất, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thực hiện, bám sát thực tiễn; tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể có liên quan để nâng cao năng lực thực thi; đơn giản hóa thủ tục hành chính; chỉ quy định những nội dung đúng thẩm quyền của Quốc hội; giao Chính phủ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quy định nội dung chi tiết theo thẩm quyền để kịp thời sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh khi cần thiết và phù hợp với thực tiễn.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo tiếp thu tối đa ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội. Những vấn đề còn có ý kiến khác nhau đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Cơ quan soạn thảo, Cơ quan thẩm tra trao đổi thấu đáo, đồng thuận và thống nhất quy định trong dự thảo Luật.
Về quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh nêu rõ, công đoàn là “tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động”, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, do vậy, việc thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn cần phải được quy định bảo đảm chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật nhưng cũng phải bảo đảm thu hút người lao động, tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tham gia Công đoàn và đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế, đáp ứng với đòi hỏi thực tiễn của quá trình phát triển.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo chỉnh lý tại Điều 5 của dự thảo Luật về việc thành lập, gia nhập Công đoàn của người lao động Việt Nam và việc gia nhập Công đoàn của người lao động là công dân nước ngoài. Đồng thời, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam sớm có giải pháp đồng bộ, phát huy bản chất, vai trò, trách nhiệm của đoàn viên công đoàn, tổ chức Công đoàn trong kỷ nguyên mới như ý kiến đại biểu Quốc hội.
Về điều kiện gia nhập công đoàn của người lao động là công dân nước ngoài, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh cho rằng, khoản 5 Điều 4 quy định “Cán bộ công đoàn là công dân Việt Nam được bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm, chỉ định để thực hiện các nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn”, bao gồm cán bộ công đoàn chuyên trách và cán bộ công đoàn không chuyên trách. Đối với người lao động là công dân nước ngoài khi gia nhập Công đoàn thì không được ứng cử, nhận đề cử làm cán bộ công đoàn và chỉ hoạt động công đoàn tại công đoàn cơ sở.
Bên cạnh đó, khoản 7 Điều 10 cũng quy định cấm “Lợi dụng quyền công đoàn để vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, cá nhân”. Khoản 3 Điều 5 quy định “Việc thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn thực hiện theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam, Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan”. Vì vậy, các điều kiện tự nguyện, tán thành tôn chỉ, mục đích của Công đoàn hay thời gian cư trú tại Việt Nam... sẽ được quy định cụ thể tại Điều lệ Công đoàn Việt Nam và do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam hướng dẫn cụ thể. Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho giữ như quy định của dự thảo Luật.
Về việc gia nhập Công đoàn Việt Nam của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp, tiếp thu ý kiến của đại biểu, đề xuất của Cơ quan soạn thảo và tiếp thu ý kiến của Chính phủ, để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong công tác chỉ đạo toàn hệ thống Công đoàn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo chỉnh lý theo hướng bổ sung thẩm quyền của công đoàn ngành trung ương và tương đương trong việc công nhận tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp gia nhập Công đoàn Việt Nam tại khoản 2 và chỉnh lý khoản 3 Điều 6.
Đồng thời, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cần thống nhất chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể, có giải pháp phù hợp trong quá trình tổ chức thực hiện; bổ sung quy định trong Điều lệ Công đoàn Việt Nam về các điều kiện, tiêu chuẩn, quy trình thẩm tra, xác minh chặt chẽ tính hợp pháp, tuân thủ pháp luật của tổ chức đại diện của người lao động tại doanh nghiệp cũng như tư cách và điều kiện của các thành viên khi gia nhập Công đoàn.
8h24: Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Công đoàn (sửa đổi)
Dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Luật Công đoàn (sửa đổi).
Kết quả biểu quyết điện tử cho thấy, có 443/456 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 92,48% tổng số đại biểu Quốc hội. Như vậy, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Công đoàn (sửa đổi) với tỷ lệ tán thành cao.
8h27: Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội Nguyễn Đắc Vinh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035.
Trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Nguyễn Đắc Vinh cho biết, ngày 01/11/2024, Quốc hội đã thảo luận tại phiên họp toàn thể về Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 – 2035. Nhìn chung, các vị đại biểu Quốc hội thống nhất cao về chủ trương đầu tư, những nội dung cơ bản của Chương trình và dự thảo Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư.
Về kinh phí thực hiện Chương trình, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Nguyễn Đắc Vinh cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu ý kiến của đại biểu và thể hiện tại điểm d khoản 4 Điều 1 dự thảo Nghị quyết. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị trong quá trình xây dựng Báo cáo nghiên cứu khả thi, Chính phủ chỉ đạo các cơ quan liên quan phối hợp chặt chẽ với các địa phương để xác định tỷ lệ đối ứng phù hợp.
Về các ý kiến thống nhất với cơ chế, chính sách đặc thù trong thực hiện Chương trình; tuy nhiên, đề nghị tiếp tục rà soát kỹ lưỡng để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Nguyễn Đắc Vinh cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu và đề nghị Chính phủ trong quá trình xây dựng, triển khai thực hiện Chương trình, cần tiếp tục rà soát, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để triển khai thực hiện Chương trình hiệu quả…
Liên quan đến việc đầu tư, xây dựng Trung tâm văn hóa Việt Nam tại nước ngoài, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, việc đầu tư là phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, thực hiện Chiến lược văn hóa đối ngoại và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin phép Quốc hội đưa nội dung này là một trong những cơ chế đặc thù trong thực hiện Chương trình. Ngoài ra, đề nghị Chính phủ chỉ đạo, tiếp thu ý kiến đại biểu, lựa chọn xây dựng trung tâm theo thứ tự ưu tiên; tiếp tục hoàn thiện cơ chế tổ chức, vận hành phù hợp với từng địa bàn, có giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm bảo đảm tính khả thi, hiệu quả và tránh lãng phí.
Về ý kiến thống nhất quan điểm chung của Đảng, Nhà nước là phân cấp tối đa cho địa phương, giao cho địa phương bố trí nguồn lực phù hợp điều kiện thực tế; đồng thời đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành tăng cường kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện Chương trình, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu và đề nghị Chính phủ chỉ đạo thực hiện đúng nguyên tắc này trong quá trình xây dựng Báo cáo nghiên cứu khả thi và tổ chức triển khai thực hiện Chương trình.
Đối với các ý kiến đề nghị bổ sung một số chỉ tiêu, nội dung nhiệm vụ cụ thể cho đối tượng đặc thù là người lao động, công nhân, người dân tộc thiểu số di cư đang làm việc tại khu công nghiệp, khu chế xuất…, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Nguyễn Đắc Vinh cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu và đề nghị Chính phủ chỉ đạo tiếp tục rà soát, lưu ý các đối tượng đặc thù nêu trên trong quá trình xây dựng, hoàn thiện nội dung thành phần trong Báo cáo nghiên cứu khả thi, bảo đảm tránh trùng lặp với các chương trình mục tiêu quốc gia đang triển khai và đáp ứng nhu cầu bảo tồn văn hóa, sinh hoạt văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số…
Về các ý kiến còn băn khoăn, đề nghị điều chỉnh, bổ sung một số chỉ tiêu, nhiệm vụ trong các nội dung thành phần của Chương trình; đề xuất một số giải pháp để thực hiện hiệu quả nội dung thành phần, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Nguyễn Đắc Vinh cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu, đề nghị Chính phủ nghiên cứu kỹ lưỡng, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội trong quá trình xây dựng Báo cáo nghiên cứu khả thi, chịu trách nhiệm về việc cụ thể hóa, triển khai thực hiện Chương trình theo các nguyên tắc, nội dung được Quốc hội thông qua.
Ngoài các nội dung nêu trên, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Nguyễn Đắc Vinh cho biết, các đại biểu Quốc hội đã góp ý một số vấn đề cụ thể khác, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nghiên cứu, tiếp thu và thể hiện cụ thể trong dự thảo Nghị quyết.
8h36: Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035.
Dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh, Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 – 2035 bằng hình thức biểu quyết điện tử. Kết quả biểu quyết cho thấy có 430/454 đại biểu biểu quyết tán thành (chiếm 89,77%). Như vậy, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết của Quốc hội về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 – 2035.
8h38: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh điều hành nội dung thảo luận về dự án Luật Việc làm (sửa đổi)
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh cho biết, ngày 9/11/2024, Quốc hội đã thảo luận tại tổ về dự án Luật Việc làm (sửa đổi). Cơ quan chủ trì soạn thảo đã có báo cáo cập nhật thông tin bước đầu tiếp thu, giải trình ý kiến của đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ.
Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị các đại biểu Quốc hội phát biểu về các vấn đề như: Việc sửa đổi toàn diện Luật Việc làm đã đảm bảo thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm bền vững chưa, có đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật, tương thích với các luật có liên quan hay không.
Phó Chủ tịch Quốc hội cũng đề nghị các đại biểu Quốc hội cho ý kiến về đối tượng vay vốn hỗ trợ tạo việc làm, duy trì mở rộng việc làm, quy định như dự thảo luật đã bao quát hết các đối tượng hay chưa, có phù hợp với chủ trương của Đảng về tăng cơ hội việc làm bền vững cho người trong độ tuổi, sau độ tuổi lao động để tận dụng thời kỳ dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số.
Ngoài ra, Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị các đại biểu nêu ý kiến về việc thành lập hội đồng kỹ năng nghề, cơ chế đảm bảo điều kiện hoạt động, trung tâm dịch vụ việc làm... cùng các vấn đề khác các đại biểu quan tâm.
8h42: Đại biểu Trần Thị Thu Hằng - Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Nông: Bổ sung nhóm đối tượng truyền nghề truyền thống vào dự thảo Luật
Thống nhất với sự cần thiết ban hành Luật, đại biểu Trần Thị Thu Hằng cho biết, đối với một số địa phương có đặc thù dân cư sinh sống bao gồm nhiều đồng bào dân tộc thiểu số đang gặp nhiều khó khăn, vướng mắc liên quan đến vấn đề bảo tồn, duy trì nét văn hóa truyền thống, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc riêng. Vì trên thực tế đối tượng truyền nghề truyền thống không có chứng chỉ hành nghề nên các địa phương gặp nhiều khó khăn trong chi trả chế độ, khuyến khích họ tham gia trao truyền, giảng dạy, kĩ năng mà họ có sự kế thừa từ thế hệ trước và kinh nghiệm cá nhân.
Do đó, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung nhóm đối tượng này vào dự thảo Luật để luật hóa, từ đó ban hành các chế độ chính sách phù hợp.
Tại Điều 8 quy định đối tượng vay vốn hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm, góp ý vào điểm d khoản 2 Điều này, đại biểu Trần Thị Thu Hằng kiến nghị bổ sung thêm nhóm đối tượng được vay vốn hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm với mức lãi suất thấp hơn là: người lao động trong hộ gia đình đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc người cao tuổi thường xuyên đau ốm, không có khả năng lao động, không tự chăm sóc được bản thân.
Tại điểm a khoản 1 Điều 23 về trình tự đăng ký lao động quy định: “Người sử dụng lao động nộp hồ sơ đăng ký lao động cùng với việc đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội”.
Trong khi đó, khoản 2 Điều 12 của Bộ luật Lao động quy định trách nhiệm quản lý lao động của người sử dụng lao động: “Khai trình việc sử dụng lao động trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày bắt đầu hoạt động, định kỳ báo cáo tình hình thay đổi về lao động trong quá trình hoạt động với cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và thông báo cho cơ quan bảo hiểm xã hội”. Vì vậy, đại biểu Trần Thị Thu Hằng đề nghị tiếp tục rà soát, đối chiếu nội dung quy định của Luật này cho phù hợp, đồng nhất với Bộ luật Lao động.
Liên quan đến Điều 58 quy định đóng bảo hiểm thất nghiệp, đại biểu bày tỏ băn khoăn tính khả thi của quy định tại khoản 5 Điều 58 khi áp dụng vào thực tiễn chưa cao bởi vì khi cơ quan bảo hiểm xã hội thu được số tiền mà doanh nghiệp chậm đóng hoặc trốn đóng mới trả lại cho người lao động thì khả năng thu hồi quá lâu. Do đó, đề nghị cần xem xét lại quy định này cho phù hợp. Trong trường hợp vẫn giữ quy định này thì phải có thời hạn giữ, thời hạn trả tiền cụ thể, rõ ràng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho người lao động.
8h47: Đại biểu Dương Tấn Quân - Đoàn ĐBQH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Rà soát các đối tượng được hưởng chính sách về việc làm
Đóng góp ý kiến về dự án Luật Việc làm (sửa đổi), đại biểu Dương Tấn Quân quan tâm đến chính sách Nhà nước về việc làm. Theo đó, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo dự án Luật rà soát các đối tượng được hưởng chính sách để tránh bỏ sót các đối tượng được hỗ trợ...
Tại khoản 8 (Điều 5) quy định hỗ trợ người sử dụng lao động sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật, người dân tộc thiểu số. Đại biểu Dương Tấn Quân đề nghị xem xét, bổ sung thêm hai đối tượng. Thứ nhất là phụ nữ ngoài 40 tuổi và thứ hai là người cao tuổi với lý do là đối tượng phụ nữ ở độ tuổi ngoài 40 tuổi thì thường khó duy trì hoặc là tìm kiếm cơ hội việc làm mới bởi vì nhiều lý do như là sự phân biệt về tuổi tác, kỹ năng nghề nghiệp, văn hóa doanh nghiệp, vấn đề về gia đình, sức khỏe... Thực tế là hiện nay vẫn còn tình trạng là nhiều nhà máy, xí nghiệp tìm cách sa thải hoặc là không tuyển dụng đối với đối tượng này.
Đối với người cao tuổi, trong bối cảnh già hóa dân số ngày càng tăng, việc khuyến khích người cao tuổi còn khả năng lao động tham gia vào thị trường lao động là một giải pháp cần thiết. Tuy nhiên, đối tượng này cũng là đối tượng đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận việc làm do vấn đề tuổi tác, sức khỏe và năng suất lao động. Do đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho người sử dụng lao động khi sử dụng nhiều lao động nữ ngoài 40 tuổi và người cao tuổi nhằm để khuyến khích họ tiếp tục sử dụng hoặc là có chính sách tuyển dụng, sử dụng đối với đối tượng này.
8h54: Đại biểu Điểu Huỳnh Sang - Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Phước: Rà soát quy định về trợ cấp thất nghiệp
Phát biểu tại Phiên họp, đại biểu Điểu Huỳnh Sang cho rằng, việc sửa đổi Luật Việc làm là cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu về quản lý nhà nước; giải quyết các vấn đề liên quan đến việc làm bền vững; xu hướng phát triển kinh tế- xã hội phù hợp với hội nhập quốc tế…
Về điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp, đại biểu Điểu Huỳnh Sang băn khoăn trong trường hợp, nếu người lao động bị sa thải hoặc buộc thôi việc trái pháp luật, họ vẫn có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết các vụ việc này có thể kéo dài vài năm. Do vậy, đại biểu đề nghị dự thảo Luật làm rõ trong thời gian này, người lao động có được hưởng trợ cấp thất nghiệp hay không.
Liên quan đến mức hưởng trợ cấp thất nghiệp, đại biểu cho biết, hiện nay, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng chỉ bằng 60% mức bình quân tiền lương đóng bảo hiểm thất nghiệp của 06 tháng đã đóng bảo hiểm thất nghiệp gần nhất trước khi thất nghiệp, tối đa không quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng. Theo đại biểu, mức trợ cấp này không đủ chi phí cá nhân cho người lao động, chứ chưa kể đến chi phí gia đình, vì hầu hết doanh nghiệp đóng bảo hiểm thất nghiệp theo mức lương tối thiểu vùng (khoảng 4 triệu đồng/tháng), mức trợ cấp chỉ khoảng 2,5 triệu đồng/tháng. Vì vậy, đại biểu đề nghị cần rà soát, tăng mức hưởng trợ cấp thất nghiệp từ 60% lên 75% mức bình quân tiền lương đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động, để phù hợp với thực tiễn cuộc sống hiện nay.
8h58: Đại biểu Thạch Phước Bình - Đoàn ĐBQH tỉnh Trà Vinh: Làm rõ các tiêu chí xác định khu vực lao động phi chính thức
Góp ý dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi), đại biểu Thạch Phước Bình đề nghị bổ sung định nghĩa về lao động phi chính thức và các tiêu chí xác định khu vực phi chính thức; có các chính sách khuyến khích hộ kinh doanh đăng ký giảm chi phí đăng ký kinh doanh và miễn thuế trong giai đoạn đầu chuyển đổi, đơn giản hóa thủ tục hành chính tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh nhỏ lẻ tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi.
Về phát triển chính sách an sinh xã hội một cách linh hoạt, đại biểu Thạch Phước Bình đề nghị cần xây dựng bảo hiểm xã hội tự nguyện mở rộng, cho phép đóng theo mức thu nhập linh hoạt phù hợp với lao động có thu nhập thấp và không ổn định.
9h03: Đại biểu Chu Thị Hồng Thái - Đoàn ĐBQH tỉnh Lạng Sơn: Quan tâm nhiều hơn nữa đến người dân sinh sống tại khu vực biên giới
Đại biểu Chu Thị Hồng Thái tán thành với việc sửa đổi Luật Việc làm như Tờ trình của Chính phủ và nhất trí với nhiều nội dung trong báo cáo thẩm tra của Ủy ban Xã hội của Quốc hội.
Góp ý về tín dụng chính sách giải quyết việc làm (Điều 7), đại biểu cho biết, điểm a Khoản 2, quy định Nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm: Ngân sách Trung ương cấp cho Ngân hàng Chính sách xã hội từ chi đầu tư phát triển khác. Về nguồn vốn Trung ương, đại biểu đề nghị Chính phủ quy định nguyên tắc phân bổ nguồn vốn từ Ngân hàng chính sách xã hội Trung ương đến các Ngân hàng chính sách xã hội địa phương. Trong đó có ưu tiên phân bổ nguồn vốn nhiều hơn đối với các tỉnh có nguồn thu ngân sách thấp, phụ thuộc lớn vào ngân sách trung ương. Vì các địa phương này có đối tượng có nhu cầu vay vốn rất lớn, nhưng nguồn thu ngân sách hạn hẹp nên việc bố trí vốn từ nguồn ngân sách địa phương sang Ngân hàng chính sách xã hội cũng không nhiều.
Để có thêm nguồn vốn cho chương trình giải quyết việc làm, đại biểu đề nghị Chính phủ nghiên cứu xem xét, có cơ chế chuyển nguồn vốn vay hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn, không giải ngân được do hết đối tượng được chuyển sang chương trình cho vay giải quyết việc làm có nhu cầu vốn cao nhưng không có nguồn để cho vay.
Về đối tượng vay vốn hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm (Điều 8), đại biểu cho biết, điểm b, quy định là Người lao động thuộc hộ nghèo dân tộc thiểu số, tôi đề nghị bổ sung thêm các đối tượng sau: người lao động thuộc hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ có mức sống trung bình người dân tộc thiểu số. Đây là những đối tượng cũng rất khó khăn, có nhu cầu vay vốn lớn, nhưng rất khó tiếp cận với các ngân hàng thương mại cần tài sản đảm bảo hoặc khả năng chi trả lãi không đáp ứng được yêu cầu.
Điểm c) quy định “Người lao động thuộc hộ nghèo dân tộc Kinh đang sinh sống tại xã phường, thị trấn (sau đây gọi chung là xã) đặc biệt khó khăn, huyện đảo không có đơn vị hành chính cấp xã nhưng thuộc danh sách xã đặc biệt khó khăn, thôn đặc biệt khó khăn thuộc các xã không phải là xã đặc biệt khó khăn”. Đại biểu Chu Thị Hồng Thái đề nghị cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra xem xét bỏ cụm từ “dân tộc kinh” bởi vì hộ nghèo thì bất kể họ thuộc dân tộc nào thì cũng cần được hỗ trợ, và đề nghị bổ sung cụm từ“xã biên giới” vào quy định này, với lý do:
Ngay tại Tờ trình của Chính phủ về sự cần thiết ban hành Luật Việc làm (sửa đổi), cơ sở chính trị, pháp lý có nêu “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục nhấn mạnh quan điểm, chủ trương xuyên suốt của Đảng về mục tiêu giải quyết việc làm bền vững, chất lượng, phát triển nguồn nhân lực (một trong ba khâu đột phá chiến lược) và hỗ trợ phát triển thị trường lao động, cụ thể: “Tạo sinh kế, việc làm, định canh, định cư vững chắc cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới”.
Do vậy, đại biểu đề nghị bổ sung đối tượng ngươìlao động sinh sống tại các xã biên giới vào quy định này là phù hợp với quan điểm của Đảng và viết lại điểm c như sau: “Người lao động thuộc hộ nghèo đang sinh sống tại xã phường, thị trấn (sau đây gọi chung là xã) đặc biệt khó khăn, xã biên giới, huyện đảo không có đơn vị hành chính cấp xã nhưng thuộc danh sách xã đặc biệt khó khăn, thôn đặc biệt khó khăn thuộc các xã không phải là xã đặc biệt khó khăn”.
Tương tự như vậy, đại biểu đề nghị sửa đổi, bổ sung các đối tượng như trên tại các điểm a, b khoản 2, điều 10 về Đối tượng vay vốn hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Qua đây, đại biểu rất mong các cơ quan của Chính phủ và Quốc hội khi xây dựng và thẩm tra các cơ chế chính sách, cần quan tâm nhiều hơn nữa đến đối tượng người dân sinh sống tại khu vực biên giới, bởi có nhiều văn bản của Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ về chủ trương, ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội khu vực biên giới.
Tuy nhiên khi quy định các chính sách cụ thể thì lại không được đưa vào, hoặc ngay từ đầu không có báo cáo tác động chính sách, dự kiến bố trí nguồn lực xây dựng chính sách cho người dân khu vực biên giới nên khi có ý kiến đề nghị bổ sung thì lại chưa đầy đủ căn cứ để đưa vào quy định.
9h09: Đại biểu Triệu Thị Ngọc Diễm - Đoàn ĐBQH tỉnh Sóc Trăng: Đảm bảo hiệu quả chính sách hỗ trợ việc làm cho thanh niên
Đại biểu Triệu Thị Ngọc Diễm cho biết, việc thực hiện Luật Việc làm năm 2013 đã đem lại nhiều kết quả đáng kể trên các lĩnh vực, có ý nghĩa quan trọng, góp phần tạo môi trường việc làm cơ bản ổn định, đa dạng và toàn diện. Đó chính là yếu tố kế thừa để xây dựng Luật Việc làm (sửa đổi).
Đóng góp ý kiến vào dự thảo luật, đại biểu cho biết, ở lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, việc tồn tại cùng lúc nhiều chính sách hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp và hỗ trợ đào tạo dưới 3 tháng với nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện khác nhau làm phát sinh hồ sơ, thủ tục thanh quyết toán, gây nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện. Bên cạnh đó, về chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an, hiện trong thực tiễn đang gặp khó khăn khi thực hiện cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ, do có chồng chéo, vướng mắc trong các văn bản hướng dẫn chi tiết.
Đại biểu đề nghị dự thảo luật cần đánh giá tác động và các vướng mắc hiện nay liên quan đến chính sách hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp và hỗ trợ đào tạo dưới 3 tháng, nên xem xét, ban hành chính sách chung thống nhất đối với việc miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập, chính sách hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp và hỗ trợ đào tạo dưới 3 tháng cho các đối tượng thụ hưởng. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính ban hành thông tư quy định, hướng dẫn nội dung chi, mức chi thống nhất để các địa phương dễ thực hiện, tránh tình trạng có nhiều văn bản hướng dẫn nhưng vướng mắc, thiếu thống nhất trong triển khai thực hiện.
Đối với chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên, đại biểu cho biết, chính sách này đã được thể hiện tại các Điều 19, 20, 21, 22 của dự thảo Luật, với nội hàm và phạm vi được mở rộng hơn luật hiện hành. Tuy nhiên, các chính sách này còn khá chung chung, điều kiện và nội dung hỗ trợ đào tạo nghề gắn với tạo việc làm cho thanh niên chưa thiết thực. Quy định như vậy với thanh niên không có sự khác biệt so với các đối tượng khác, chưa thể hiện được tầm quan trọng của thanh niên là lực lượng lao động đặc biệt.
Để phát huy vai trò thực sự của thanh niên, để các chính sách hỗ trợ việc làm cho thanh niên được thực thi hiệu quả trong thực tiễn kỷ nguyên số hiện nay, đại biểu đề nghị dự thảo luật xem xét, bổ sung thêm nội dung khuyến khích, tạo môi trường việc làm cho thanh niên thông qua nâng cao chất lượng đào tạo nhằm đẩy mạnh đào tạo các kỹ năng số, kỹ năng mềm, ý thức kỷ luật cho thanh niên, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thị trường lao động, nhất là thị trường lao động số. Đồng thời, cần tăng cường hợp tác quốc tế trong chiến lược tạo môi trường việc làm cho thanh niên nhằm mở rộng hợp tác với các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp nước ngoài để tạo thêm cơ hội việc làm cho thanh niên, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao, kinh tế số.
Ngoài ra, đại biểu cũng đề nghị cần đặc biệt quan tâm đến chính sách phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, hỗ trợ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo thông qua việc thiết lập các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp, không gian làm việc chung, mạng lưới kết nối giữa các doanh nghiệp, nhà đầu tư, thanh niên khởi nghiệp để chia sẻ kinh nghiệm, nguồn lực, phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương để khai thác triệt để tài nguyên vốn có tại chỗ, tận dụng các lợi thế về cơ chế, chính sách để có ý tưởng khởi nghiệp, tạo công ăn việc làm cho thanh niên trên địa bàn.
9h16: Đại biểu Phạm Văn Hòa - Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Tháp: Nên quy định hỗ trợ tất cả các hộ nghèo, cận nghèo, xã đặc biệt khó khăn trong cả nước đều được hỗ trợ vay vốn
Góp ý về Điều 10 của dự thảo Luật, đại biểu Phạm Văn Hòa cho rằng, quy định hộ nghèo, hộ cận nghèo ở huyện đảo, xã đặc biệt khó khăn mới được vay vốn thì không công bằng với những hộ nghèo, hộ cận nghèo ở những nơi khác. Tức chỉ quy định hỗ trợ cho xã đặc biệt khó khăn, hộ nghèo, cận nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, còn những hộ nghèo ở những nơi khác lại không được hỗ trợ. Quy định như vậy thì không hợp lý.
Do đó, đại biểu đề nghị nên quy định hỗ trợ tất cả các hộ nghèo, hộ cận nghèo, xã đặc biệt khó khăn trong cả nước đều được hỗ trợ vay vốn.
Về quy định đăng ký lao động ở Chương 3, đại biểu Phạm Văn Hòa cho rằng, đây là nội dung rất mới và lớn, tuy nhiên quy định không rành mạch, rõ ràng; đồng thời băn khoăn cơ quan, tổ chức cho đăng ký lao động việc làm là ai, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội hay Phòng Lao động hay ở xã, phường? Nếu các cán bộ xã, phường phụ trách đăng ký thêm việc làm lao động thì sẽ gặp nhiều khó khăn vì họ phải kiêm nhiệm nhiều công việc. Dó đó, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu thêm tính hợp lý của vấn đề này, nếu không hợp lý thì đề nghị bỏ quy định này ở Chương 3, tránh gây rườm rà cho các cơ sở ở xã, phường.
Liên quan đến quy định về Hội đồng kỹ năng nghề, dự thảo Luật quy định tất cả bộ, ngành ở Trung ương đều thành lập Hội đồng kỹ năng nghề, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giao cho Chính phủ quy định. Đại biểu Phạm Văn Hòa cho rằng, quy định như vậy rất bất cập, chỉ bộ ngành nào có liên quan, UBND xã, phường có liên quan thì mới thành lập Hội đồng kỹ năng nghề để đánh giá, còn bộ, ngành nào không liên quan thì không nhất thiết phải thành lập. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo xem xét lại quy định này.
Ngoài ra, đánh giá riêng về kỹ năng nghề quốc gia, đại biểu đề nghị dự thảo Luật cần quy định cho rõ, cụ thể về trình độ, năng lực, học hàm, học vị.
9h23: Đại biểu Nguyễn Minh Tâm - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Bình: Rà soát trình tự thủ tục hỗ trợ người lao động
Đóng góp ý kiến về dự án Luật Việc làm (sửa đổi), đại biểu Nguyễn Minh Tâm quan tâm về trình tự thủ tục hỗ trợ người lao động. Theo đó, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo dự án Luật rà soát các thủ tục và giao cho Chính phủ quy định...
Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội tại văn bản số 15/CTQH ngày 29/10/2024 về đổi mới tư duy trong xây dựng pháp luật, trên tinh thần cơ bản không quy định thủ tục hành chính, hồ sơ, trình tự thủ tục trong luật mà giao cho Chính phủ, các Bộ quy định.
Qua nghiên cứu dự thảo Luật, đại biểu Nguyễn Minh Tâm cho rằng, tại dự thảo Luật còn có một số nội dung quy định về thủ tục hành chính như: Trình tự đăng ký lao động (Điều 23); điều chỉnh thông tin về việc làm trong cơ sở dữ liệu về người lao động (Điều 25); trình tự, thủ tục hỗ trợ người sử dụng lao động đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động (Điều 63); trình tự, thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp (Điều 66); trình tự, thủ tục hỗ trợ người lao động tham gia đào tạo nâng cao tay nghề (Điều 74, Điều 77)… Do đó, đại biểu Nguyễn Minh Tâm đề nghị cơ quan soạn thảo dự án Luật nghiên cứu, rà soát loại bỏ các quy định về thủ tục hành chính ra khỏi dự thảo Luật và giao cho Chính phủ quy định nội dung này.
9h30: Đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân - Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Dương: Cần có quy định bắt buộc về trách nhiệm đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
Phát biểu tại Phiên họp, đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân bày tỏ ủng hộ với sự cần thiết của dự thảo Luật. Quan tâm về nội dung về đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động, đại biểu cho biết, dự thảo Luật đang quy định trong trường hợp người sử dụng lao động không còn khả năng đóng hoặc trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp, người lao động được phép sử dụng tiền của mình để nộp vào quỹ bảo hiểm để được hưởng các chế độ…
Đại biểu cho rằng, quy định này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động và có thể gây bức xúc cho người lao động, vì doanh nghiệp nợ tiền bảo hiểm mà người lao động phải tự nộp. Trong trường hợp này, đại biểu đề nghị bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thường của người sử dụng lao động nếu không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng bảo hiểm cho người lao động. Đồng thời có quy định về chế tài xử phạt cụ thể đối với các hành vi vi phạm. “Từ đó cho thấy rằng việc đóng bảo hiểm thất nghiệp không chỉ là quyền lợi của người lao động mà còn là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc của người sử dụng lao động”, đại biểu nhấn mạnh.
Theo đại biểu, trong trường hợp doanh nghiệp không đóng hoặc nợ bảo hiểm thất nghiệp, cơ quan bảo hiểm có thể tạm ứng để người lao động không bị gián đoạn quyền lợi và bổ sung quy định buộc doanh nghiệp hoàn trả toàn bộ số tiền bảo hiểm thất nghiệp đã bị trốn đóng kèm lãi suất tương ứng.
Song, dưới góc độ doanh nghiệp, đại biểu đề nghị xem xét áp dụng cơ chế giãn, hoãn hoặc giảm mức đóng bảo hiểm thất nghiệp cho các doanh nghiệp gặp khó khăn tài chính, đặc biệt trong các tình huống kinh tế khó khăn, thiên tai, dịch bệnh nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật chặt chẽ, hiệu quả hơn trong việc quản lý bảo hiểm thất nghiệp; đảm bảo sự cân bằng giữa quyền lợi của người lao động và khả năng tuân thủ của doanh nghiệp, hướng tới một môi trường lao động công bằng và bền vững.
9h57: Đại biểu Trương Thị Ngọc Ánh - Đoàn ĐBQH Tp. Cần Thơ: Cần bổ sung quy định cụ thể về nhận thức xã hội, việc làm, quyền và trách nhiệm của người cao tuổi
Thảo luận tại phiên họp, đại biểu Trương Thị Ngọc Ánh bày tỏ tán thành sửa đổi Luật Việc làm nhằm thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 và chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm cũng như vấn đề về thị trường lao động, cải cách chính sách bảo hiểm thất nghiệp… Đồng thời đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật liên quan đến lao động, việc làm, phù hợp với các tiêu chuẩn, thông lệ và cam kết quốc tế.
Góp ý dự thảo về việc làm cho người cao tuổi, đại biểu Trương Thị Ngọc Ánh cho biết Việt Nam đang có xu hướng già hóa dân số nhanh, người cao tuổi từ 60-75 tuổi vẫn còn sức khỏe, kinh nghiệm và khả năng đóng góp cho xã hội. Tuy nhiên, phần lớn người cao tuổi có cuộc sống khó khăn, thu nhập thấp và phụ thuộc vào trợ cấp xã hội.
Đại biểu đề nghị bổ sung quy định cụ thể về nhận thức xã hội, việc làm, quyền và trách nhiệm của người cao tuổi, trách nhiệm của cơ quan nhà nước và doanh nghiệp trong tạo việc làm phù hợp.
Về định nghĩa và phạm vi của "việc làm", đại biểu cho rằng dự thảo luật chưa bao quát đầy đủ việc làm, chỉ đề cập đến việc làm có phát sinh quan hệ lao động. Đại biểu đề nghị bổ sung việc làm tự nguyện vì lợi ích của người khác, như công việc nội trợ gia đình, vì đây là yếu tố nền tảng để các thành viên gia đình có thể lao động sáng tạo ra thu nhập. Từ đó, bổ sung quy định cấm phân biệt đối xử, miệt thị đối với những người làm việc tự nguyện vì người khác.
10h02: Đại biểu Chamaleá Thị Thủy - Đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Thuận: Sửa đổi bổ sung các quy định hưởng bảo hiểm thất nghiệp
Góp ý hoàn thiện dự thảo luật, đại biểu Chamaleá Thị Thủy đề nghị rà soát nghiên cứu bổ sung vào dự thảo luật các quy định để đảm bảo trách nhiệm quản lý nhà nước về việc làm. Tại Chương VIII quy định quản lý nhà nước về việc làm gồm ba điều, từ Điều 90 đến Điều 92, đại biểu cho rằng, cơ quan soạn thảo cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung vì quy định như dự thảo là chưa rõ trách nhiệm.
Cơ quan soạn thảo cũng cần nghiên cứu, rà soát, bổ sung các biện pháp để xử lý đối với các hành vi vi phạm các chính sách pháp luật về việc làm. Dự thảo luật đã quy định nhiều chính sách có liên quan đến việc làm; việc xác định trách nhiệm quản lý nhà nước về việc làm ở theo dự thảo luật là rất chung chung và cũng chưa quy định hình thức xử lý như thế nào đối với các hành vi vi phạm pháp luật về việc làm. Do đó, đại biểu kiến nghị nghiên cứu bổ sung vào dự thảo luật các hình thức xử lý vi phạm pháp luật để hoàn thiện chức năng quản lý nhà nước về việc làm.
Về bảo hiểm thất nghiệp, đại biểu cho biết tại điểm d khoản 3 Điều 60 của dự thảo luật có quy định về thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp là không bảo lưu để tính hưởng trợ cấp thất nghiệp cho lần tiếp theo là thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp là trên 144 tháng. Tại Điều 65 của dự thảo luật quy định thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp có đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng được 3 tháng trợ cấp thất nghiệp. Sau đó, cứ đóng đủ 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp, nhưng tối đa không quá 12 tháng. Đại biểu kiến nghị cơ quan soạn thảo cần rà soát các quy định này, vì quy định như dự thảo luật sẽ thiệt thòi cho người có thời gian đóng bảo hiểm dài hơn là 144 tháng.
Đại biểu đề nghị điều chỉnh theo hướng người lao động được hưởng bảo hiểm thất nghiệp tương đương với thời gian đóng, có nghĩa là đóng đủ 12 tháng là được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp; hoặc nếu vẫn giữ quy định đóng đủ 12 tháng được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng thì cần phải quy định thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp trên 144 tháng sẽ được bảo lưu để tính hưởng trợ cấp thất nghiệp cho lần tiếp theo. Đại biểu cho rằng đây cũng là một trong những vấn đề mà người lao động thực sự rất quan tâm, vì ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao động, nhất là những người đang bị thất nghiệp và đang lúc gặp khó khăn.
10h09: Đại biểu Nguyễn văn Huy – Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Bình: Rà soát, bổ sung quy định Chính sách của Nhà nước về việc làm
Phát biểu tại phiên thảo luận, đại biểu Nguyễn Văn Huy tán thành với sự cần thiết sửa đổi Luật Việc làm với các lý do tại Tờ trình và cơ bản đồng tình với Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Xã hội. Tuy nhiên đại biểu đề nghị rà soát, bổ sung quy định về đối tượng lao động và Chính sách của Nhà nước về việc làm.
Đại biểu chỉ rõ, tại Điều 2 dự thảo Luật có quy định, Luật này áp dụng đối với người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc làm. Tại khoản 1 Điều 3 về giải thích từ ngữ có nêu rõ: Người lao động là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc. Đại biểu cho rằng quy định như vậy là chưa bao quát hết tất cả các đối tượng người lao động.
Trên thực tế, ngoài người lao động là công dân Việt Nam thì còn có lực lượng lao động là công dân của nước khác làm việc tại Việt Nam. Người nước ngoài lao động tại Việt Nam cũng đã được quy định tại Bộ Luật lao động, Luật Bảo hiểm xã hội. Do đó, cần quy định rõ ràng trong Luật này để bảo đảm thống nhất trong hệ thống pháp luật. Ngoài ra, cần làm rõ đối tượng áp dụng của Luật bao gồm “các cá nhân khác có liên quan” là những các nhân nào để Luật bảo đảm tính minh bạch và khả thi.
Đối với các chính sách của Nhà nước về việc làm, đại biểu cơ bản với 09 nhóm chính sách được thiết kế tại Điều 5 của dự thảo Luật. Trong đó có chính sách về hỗ trợ người sử dụng lao động sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật, người dân tộc thiểu số. Chính sách này cũng đã được quy định tại Luật Dạy nghề năm 2006. Tuy nhiên, chính sách này vẫn có những khoảng trống, do đó cần bổ sung chính sách để khuyến khích những đối tượng này vươn lên, tạo việc làm cho những người có cùng cảnh ngộ.
10h13: Đại biểu Lê Thị Ngọc Linh - Đoàn ĐBQH tỉnh Bạc Liêu: Cần quy định cụ thể về hỗ trợ thanh niên lập nghiệp, khởi sự doanh nghiệp
Về sự cần thiết ban hành Luật, đại biểu Lê Thị Ngọc Linh thống nhất với việc sửa đổi Luật nhằm thể chế hóa quan điểm của Đảng về mục tiêu giải quyết việc làm bền vững, chất lượng, phát triển nguồn nhân lực và hỗ trợ thị trường lao động; giải quyết những bất cập trong việc thực hiện Luật Việc làm năm 2013; đáp ứng yêu cầu thực tiễn thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn tới.
Về chính sách hỗ trợ việc làm cho thanh niên (Điều 19), khoản 2 Điều 19 quy định các hoạt động hỗ trợ tạo việc làm cho thanh nhiên. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, đại biểu nhận thấy, dự thảo Luật mới chỉ quy định 04 hoạt động được đảm bảo các cơ chế để thực hiện cụ thể tại các điểm (a, b, c và đ), còn lại điểm d về hỗ trợ thanh niên lập nghiệp, khởi sự doanh nghiệp thì chưa có quy định cụ thể để triển khai thực hiện.
Do đó, đại biểu Lê Thị Ngọc Linh đề nghị Cơ quan soạn thảo cần có quy định cụ thể đối với điểm d khoản 2 dự thảo Luật để đảm bảo tính khả thi, đồng bộ và cũng tạo sự thống nhất giữa các điều khoản; hạn chế tối đa vấn đề khi Luật được thông qua thực hiện lại gặp nhiều vướng mắc, bất cập.
Về tham gia và đóng bảo hiểm thất nghiệp, Luật Việc làm năm 2013 tại Điều 43 quy định đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Tuy nhiên, dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) lần này tại Điều 81 thì không quy định đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp mà chỉ quy định một số đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Đại biểu Lê Thị Ngọc Linh cho rằng, nếu quy định như dự thảo Luật (sửa đổi) lần này có thể tạo nên kẽ hở để một số doanh nghiệp lách luật, sẽ không đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động, gây ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của người lao động, khi đó người lao động sẽ chịu nhiều thiệt thòi. Và nếu có vấn đề gì xảy ra như đau ốm, bệnh tật hoặc khi gặp những chuyện không may thì họ sẽ không có được quyền hưởng các chính sách; sẽ làm gánh nặng cho gia đình nếu gia đình khó khăn, không điều kiện. Vì vậy, đại biểu đề nghị giữ nguyên như quy định tại Điều 43 của Luật hiện hành là quy định đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Về đối tượng vay vốn (Điều 9), đại biểu Lê Thị Ngọc Linh nhận thấy, dự thảo Luật chưa quy định đối tượng là hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn. Do đó, đề nghị Cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu, xem xét mở rộng thêm đối tượng này vào đối tượng được vay vốn nhằm giúp họ có thêm điều kiện và tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi giúp cải thiện kinh tế gia đình và giúp họ có cuộc sống tốt hơn.
10h17: Đại biểu Trần Văn Tuấn - Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Giang: Quan tâm đến phát triển kỹ năng nghề cho người lao động
Đóng góp ý kiến về dự án Luật Việc làm (sửa đổi), đại biểu Trần Văn Tuấn quan tâm đến phát triển kỹ năng nghề cho người lao động. Theo đó, đại biểu cho rằng, cần chú trọng và có cách tiếp cận mới trong mở rộng hơn về đối tượng người được hỗ trợ, để người lao động được bồi dưỡng, tham gia đào tạo về các kỹ năng nghề...
Thực tế cho thấy, số lượng, chất lượng lao động tác động rất lớn đến phát triển kinh tế, xã hội, là yếu tố quan trọng trong cải thiện môi trường đầu tư của quốc gia và các địa phương. Kỹ năng nghề lại là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng lao động; người lao động được đào tạo, có kỹ năng sẽ dễ dàng hơn trong tìm kiếm việc làm, có việc làm bền vững, ít lo lắng hơn việc bị sa thải. Vì vậy, việc hoàn thiện các quy định chính sách về phát triển kỹ năng nghề cho người lao động cần đặc biệt được quan tâm.
Tại khoản 1, Điều 43 của dự thảo Luật về Hỗ trợ hoạt động phát triển kỹ năng nghề quy định Nhà nước hỗ trợ thực hiện cả 8/8 nội dung phát triển kỹ năng nghề (được quy định tại khoản 2 Điều 34 của dự thảo Luật).
Đại biểu Trần Văn Tuấn cho rằng, phạm vi hỗ trợ như vậy vừa quá rộng, quá dàn trải, vừa không rõ đối tượng được hỗ trợ, nguồn lực và phương thức hỗ trợ. Nguồn lực thực hiện chính sách hỗ trợ hoạt động phát triển kỹ năng nghề, dù từ ngân sách nhà nước, Quỹ bảo hiểm thất nghiệp hay nguồn khác thì cũng nên có trọng tâm, tập trung vào hỗ trợ người lao động là chính, đồng thời cần mở rộng đối tượng là người lao động được hỗ trợ.
10h22: Đại biểu Đặng Thị Bảo Trinh - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Nam: Xem xét lại quy định về đóng bảo hiểm thất nghiệp
Phát biểu tại Phiên họp, đại biểu Đặng Thị Bảo Trinh bày tỏ ủng hộ sự cần thiết của dự thảo Luật nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng; đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, phù hợp trong hệ thống pháp luật và phù hợp với cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia…
Cho rằng Cơ quan chủ trì soạn thảo cần xem xét lại đối với quy định về đóng bảo hiểm thất nghiệp, đại biểu cho biết, tại khoản 6 Điều 3 của dự thảo Luật quy định: “Bảo hiểm thất nghiệp là loại hình bảo hiểm bắt buộc nhằm hỗ trợ người lao động để duy trì việc làm, đào tạo, tư vấn, giới thiệu việc làm và bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi bị mất việc làm trên cơ sở đóng vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp”. Trong khi đó, tại khoản 5 Điều 58 quy định: “Trường hợp, người sử dụng lao động không còn khả năng đóng số tiền chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động khi chấm dứt quan hệ lao động thì người lao động được lựa chọn nộp số tiền vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp thuộc trách nhiệm đóng bảo hiểm thất nghiệp của mình nhưng người sử dụng lao động chưa đóng cho cơ quan bảo hiểm xã hội để làm các thủ tục giải quyết hưởng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Khi cơ quan bảo hiểm xã hội thu hồi được số tiền chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp của người sử dụng lao động thì hoàn trả lại tiền mà người lao động đã đóng”.
Đại biểu cho rằng, việc quy định yêu cầu người lao động phải bỏ ra trước một khoản tiền để đóng đủ số tiền người sử dụng lao động chưa đóng mới được hưởng bảo hiểm thất nghiệp là không hợp lý. Đại biểu đề nghị cần trích từ Quỹ bảo hiểm xã hội hoặc Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, để người lao động được hưởng chế độ sớm nhất và bảo hiểm xã hội cần có trách nhiệm thu hồi số tiền chậm đóng, trốn đóng…
Về điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp, đại biểu cho biết, quy định không cho phép người lao động bị sa thải, buộc thôi việc được hưởng trợ cấp thất nghiệp là chưa hợp lý. Đại biểu đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, xây dựng quy định này theo hướng cho phép đối tượng này được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi có đầy đủ bằng chứng về việc bị từ chối việc làm do lý do bị sa thải, buộc thôi việc trước đó. Theo đại biểu, dự thảo Luật cũng cần có quy định và cơ chế kiểm soát phù hợp để tránh phân biệt đối xử trong tuyển dụng lao động liên quan đến vấn đề người lao động đã bị sa thải, buộc thôi việc trước đó.
10h27: Đại biểu Trần Nhật Minh - Đoàn ĐBQH tỉnh Nghệ An: Có chính sách phát triển nhân lực đồng bào dân tộc thiểu số
Đại biểu Trần Nhật Minh nêu thực tế ở khu vực trung du miền núi phía Bắc, bình quân khoảng 100 lao động, chỉ có 19 người đã qua đào tạo. Khu vực Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long còn thấp hơn, chỉ khoảng 13 đến 16 người trên 100 lao động đã qua đào tạo. Đại đa số chưa được qua đào tạo nên lao động dân tộc thiểu số chủ yếu làm việc đơn giản, thu nhập thấp. Do đó, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, đề xuất các chính sách để phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số, nhằm giải quyết việc làm và tạo việc làm bền vững thông qua chương trình đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề dành cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Về chính sách hỗ trợ tạo việc làm quy định tại Chương II của dự thảo luật, trong đó về đối tượng vay vốn, đại biểu đề nghị làm rõ quy mô doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ kinh doanh sử dụng nhiều lao động quy định tại điểm a khoản 2 Điều 8 là như thế nào. Trong dự thảo luật cũng không giao Chính phủ quy định chi tiết, nên sẽ khó có căn cứ để thực hiện trong thực tiễn.
Đại biểu cũng đề nghị bổ sung đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác xã, hộ kinh doanh có cơ sở sản xuất kinh doanh đóng tại địa bàn đặc biệt khó khăn, xã đặc biệt khó khăn ở vùng bãi ngang ven biển, hải đảo để tránh bỏ sót trường hợp tổ chức đơn vị sử dụng lao động có sử dụng lao động là người dân tộc thiểu số, nhưng không đủ số lượng để được hưởng chính sách này.
Về chính sách hỗ trợ đào tạo nghề gắn với tạo việc làm cho thanh niên, đại biểu đề nghị bổ sung đối tượng là thanh niên người dân tộc thiểu số vào các đối tượng được thụ hưởng. Bởi vì một trong những hạn chế của công tác giải quyết việc làm cho người dân tộc thiểu số là công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là nghề phi nông nghiệp, việc làm tại chỗ hiệu quả còn thấp; việc kết nối đào tạo nghề với giải quyết việc làm hiệu quả chưa cao; nhiều lao động đã được đào tạo nhưng chưa tìm được việc làm hoặc làm những công việc không phù hợp với ngành ngành nghề được đào tạo.
Do đó, ngoài việc hỗ trợ đào tạo nghề, theo đại biểu cần có sự hỗ trợ việc tạo việc làm cho thanh niên là người dân tộc thiểu số. Chính sách này cũng nhằm thể chế hóa Kết luận 65 ngày 30 tháng 10 năm 2019 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 19 ngày 16 tháng 6 năm 2002 của Trung ương về nội dung tạo việc làm đào tạo nghề đối với nông dân, cư dân nông thôn, thanh niên dân tộc thiểu số trong đó có nêu có chính sách giải quyết việc làm đối với thanh niên dân tộc thiểu số sau khi tốt nghiệp đại học, cao đẳng và đào tạo nghề.
10h32: Đại biểu Trần Khánh Thu - Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Bình: Tiếp tục rà soát để tránh chồng chéo, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật
Thảo luận tại phiên họp, đại biểu Trần Khánh Thu cho rằng dự thảo luật có phạm vi điều chỉnh rộng, nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều luật chuyên ngành nên để việc sửa đổi hành lang pháp lý vững chắc cho việc xây dựng phát triển; do đó đại biểu đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục rà soát nội dung dự thảo luật, đối chiếu với các luật khác, như: Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Người cao tuổi… để tránh chồng chéo, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.
Bày tỏ đồng thuận về nội dung hỗ trợ giải quyết việc làm cho người cao tuổi tuy nhiên, đại biểu Trần Khánh Thu cho rằng ở các điều khoản khác quy định liên quan đến các chính sách việc làm như Phát triển kỹ năng nghề từ việc các quy định khung trình độ, tiêu chuẩn, việc đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề mà người cao tuổi cũng phải tham gia và chịu chi phối của các quy định này. Theo đại biểu, chính sách tạo việc làm cho người lao cao tuổi thì cần được thiết kế có tính đặc thù tận dụng được tiềm năng thế mạnh của họ và bao quát được nhiều đối tượng thụ hưởng và cũng cần phải xem xét đến yếu tố địa phương, văn hóa và pháp luật về hỗ trợ cho người cao tuổi trong việc tìm kiếm công việc không chỉ là vấn đề xã hội quan trọng mà có thể tạo lợi ích kinh tế xã hội lớn cho quốc gia.
Về hệ thống thông tin thị trường lao động, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung nội dung quy định về việc định kỳ rà soát, cập nhật bổ sung thông tin thị trường lao động vì nếu không thường xuyên rà soát biến động về cung, cầu lao động thì không cập nhật được đầy đủ thông tin và tình hình biến động lao động trên địa bàn và khu vực.
Về nguyên tắc, trình tự xây dựng, loại bỏ và ban hành danh mục công việc yêu cầu phải có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia, dự thảo quy định “Người lao động làm công việc ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn và sức khỏe của cá nhân người lao động hoặc cộng đồng phải có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia”. Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo xem xét lại quy định này vì nhiều ngành nghề phải trải qua quá trình đào tạo, thử việc dài hạn, nhiều áp lực; do đó việc yêu cầu chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia đối với đối tượng này cần nghiên cứu, đánh giá kỹ tác động đối với người lao động, người sử dụng lao động, tránh làm phát sinh thủ tục hành chính, chồng chéo giữa các văn bản.
10h37: Đại biểu Chau Chắc - Đoàn ĐBQH tỉnh An Giang: Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo việc làm cho người dân
Phát biểu tại phiên họp, đại biểu Chau Chắc cho rằng, dự án Luật Việc làm (sửa đổi) được xây dựng nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, phù hợp của hệ thống pháp luật có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia, góp phần thúc đẩy phát triển thị trường lao động, hướng tới bảo đảm việc làm bền vững cho tất cả lao động.
Về hành vi bị nghiêm cấm, đại biểu cho biết, tại khoản 1, Điều 6 quy định cấm phân biệt đối xử trong việc làm dựa trên chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, nguồn gốc quốc gia hoặc nguồn gốc xã hội, dân tộc, độ tuổi, tình trạng thai sản, tình trạng hôn nhân, tín ngưỡng, chính kiến, khuyết tật, trách nhiệm gia đình hoặc trên cơ sở tình trạng nhiễm HIV hoặc vì lý do thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn, tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp có tác động làm ảnh hưởng đến bình đẳng về cơ hội việc làm. Đại biểu cho rằng đoạn cuối khoản này cần trình bày lại cho rõ ràng, cụ thể hơn, đảm bảo súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện.
Tại Điều 8 về đối tượng vay vốn hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm, đại biểu đề nghị bổ sung nội dung: doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ kinh doanh tạo việc làm cho người lao động ở khu vực nông thôn thuộc đối tượng được vay vốn hỗ trợ tạo việc làm, duy trì mở rộng việc làm với mức lãi suất thấp hơn. Theo đại biểu, việc bổ sung nội dung này giúp đối tượng trên có điều kiện tốt hơn để tạo công ăn việc làm ở nông thôn, giúp nông thôn ngày càng phát triển, hạn chế tình trạng di cư như hiện nay vào các thành phố lớn, giảm áp lực cho các đô thị.
Bên cạnh đó, đại biểu cho biết, hiện nay, thực trạng người lao động ở khu vực trung du miền núi phía Bắc di cư tìm việc làm ở đồng bằng sông Hồng, lao động ở Đồng bằng sông Cửu Long di cư tìm việc làm ở các tỉnh Đông Nam bộ ngày càng tăng. Ở các nước Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản đã thực hiện khá tốt mô hình hỗ trợ với những cách làm thiết thực, cụ thể như đẩy mạnh đào tạo lao động nông thôn, đầu tư cho các doanh nghiệp… Đại biểu cho rằng cần nghiên cứu kỹ những kinh nghiệm này.
Ngoài ra, đại biểu đề nghị bổ sung đối tượng người lao động thuộc hộ nghèo dân tộc Kinh ở địa bàn xã bãi ngang được vay vốn tạo việc làm với lãi suất thấp hơn. Về đối tượng vay vốn hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, đại biểu đề nghị bổ sung đối tượng là thân nhân người có công với cách mạng, thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an, thanh niên tình nguyện hoàn thành nhiệm vụ thực hiện chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội, trí thức trẻ tình nguyện sau khi hoàn thành nhiệm vụ công tác tại các khu kinh tế quốc phòng.
10h41: Đại biểu Lã Thanh Tân - Đoàn ĐBQH Tp. Hải Phòng: Cụ thể hóa nội dung các chính sách của Nhà nước về việc làm
Cơ bản thống nhất với nhiều nội dung của Luật Việc làm (sửa đổi) trình Quốc hội tại Kỳ họp này, đặc biệt là tư tưởng đổi mới trong xây dựng pháp luật được thể hiện rõ nét trong bố cục cũng như nội dung của dự thảo Luật, đại biểu Lã Thanh Tân góp ý về chính sách của Nhà nước về việc làm (Điều 5). Đại biểu cho rằng, đây là quy định chung và các chính sách này cần được cụ thể hóa trong dự thảo Luật.
Nội dung tại Điều này đưa ra nhiều trách nhiệm của Nhà nước trong việc xây dựng, ban hành chính sách về việc làm, trong đó có những chính sách khuyến khích phát triển việc làm sáng tạo, việc làm xanh, chính sách hỗ trợ tạo việc làm, chuyển đổi việc làm trong bối cảnh già hóa dân số, chuyển đổi năng lượng công bằng, chính sách thúc đẩy việc làm công, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế và theo hướng bền vững. Tuy nhiên, nội hàm của các chính sách này chưa được cụ thể hóa tại dự thảo Luật và cũng không giao Chính phủ quy định chi tiết. Do đó, đại biểu đề nghị cân nhắc, rà soát theo hướng nếu giữ lại thì cần phải cụ thể hóa nội dung chính sách hoặc giao trách nhiệm quy định chi tiết. Nếu không cần thiết hoặc không làm rõ được nội hàm chính sách thì đề nghị bỏ.
Bên cạnh đó, đại biểu Lã Thanh Tân đề nghị bổ sung vào Điều 5 chính sách hỗ trợ việc làm đối với người thực hiện thu hồi đất. Vì thực tế trong những năm tới, nước ta thực hiện nhiều dự án phát triển kinh tế - xã hội cần thu hồi đất, sẽ tác động đến tình hình việc làm của người lao động.
Về đăng ký và quản lý lao động (Chương 3), đại biểu cho rằng, đây là nội dung mới so với Luật Việt Nam hiện hành nhằm quản lý nguồn lao động, xây dựng và hoạch định các chính sách về việc làm, tạo thuận lợi cho người lao động trong tiếp cận và thụ hưởng các chính sách về việc làm, đảm bảo công khai, minh bạch trong quản lý nhà nước về việc làm. Đại biểu cơ bản tán thành với sự cần thiết cũng như những nội dung của những thảo Luật về vấn đề này.
Tuy nhiên, đại biểu Lã Thanh Tân đề nghị cân nhắc thêm về thông tin đăng ký tại khoản 1 Điều 22, đề nghị làm rõ trong dự thảo Luật các trường thông tin về việc làm, nhất là thông tin về vị thế việc làm, ngoại hình nơi làm việc. Vì đây là nhóm thông tin rất quan trọng, hình thành nên hệ thống cơ sở dữ liệu về người lao động.
Về quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu về người lao động tại Điều 26, đại biểu đề nghị rà soát với quy định của dự thảo Luật Dữ liệu để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất giữa quy định của dự thảo Luật này với Luật Dữ liệu.
10h46: Đại biểu Trần Thị Thanh Lam - Đoàn ĐBQH tỉnh Bến Tre: Cần có quy định về hệ thống dữ liệu thông tin về thị trường lao động
Phát biểu tại Phiên họp, đại biểu Trần Thị Thanh Lam nhấn mạnh về vai trò và sự cần thiết của của cơ sở dữ liệu về thị trường lao động đối với quá trình xây dựng thị trường lao động bền vững… Đại biểu cho biết, nhiều năm qua, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã nỗ lực vượt khó để xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về thông tin thị trường lao động. Hệ thống cơ sở dữ liệu này đã được cập nhật hàng năm, ở từng tỉnh, thành trong cả nước. Đây là cơ sở dữ liệu rất quan trọng phục vụ khá nhiều mục đích cho từng địa phương, là cơ sở để xây dựng kế hoạch, Nghị quyết, định hướng chiến lược về nguồn nhân lực. Ở tầm Quốc gia, hệ thống dữ liệu này đã phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về lao động, việc làm và một số lĩnh vực khác.
Đại biểu nhấn mạnh, chủ trương phát triển thị trường lao động và nâng cao chất lượng lao động để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội là phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, đã được định hướng tại nhiều Nghị quyết của Đảng, chương trình, kế hoạch của Chính phủ. Việc hình thành, xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay và cả trong tương lai.
“Cơ sở dữ liệu thị trường lao động giữ vai trò cốt yếu, góp phần chuẩn xác trong phân tích, đánh giá, dự báo nguồn cung, cầu lao động để có cơ sở định hướng chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Vì vậy, trong dự án Luật lần này, cần quy định yêu cầu về hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về thông tin thị trường lao động, nhằm khắc phục được những bất cập đã được nhận diện từ thực tiễn trong suốt thời gian qua khi thực hiện Luật Việc làm 2013. Phải khẩn trương chuyển đổi từ phương pháp thực hiện đến việc ứng dụng triệt để, khai thác tài nguyên từ hệ thống dữ liệu này để phục vụ cho cung – cầu lao động nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” đại biểu nêu quan điểm…
Trên tinh thần đó, đại biểu cho rằng, Cơ quan soạn thảo cần lưu ý, nội dung về hệ thống dữ liệu, từ điều tra, xử lý, cung cấp thông tin, ứng dụng kết nối cung- cầu lao động… cần phải được sử dụng triệt để trên nền tảng số để giảm tải nguồn nhân lực điều tra cập nhật hàng năm đến mức tối thiểu nhất có thể.
Đại biểu lưu ý, hệ thống dữ liệu thông tin thị trường lao động là dữ liệu về chuyên ngành, lĩnh vực, do đó cần sớm gắn kết với hệ thống dữ liệu quốc gia về dân cư cũng tương tự lĩnh vực bảo hiểm xã hội và một số chuyên ngành khác.
Cùng với đó, đại biểu đề nghị cần khẩn trương thay đổi, điều chỉnh, nội dung, phương pháp trong tổ chức thực hiện, sớm khắc phục được tình trạng chưa ăn khớp dữ liệu trong nhiều năm qua, để dữ liệu về thông tin thị trường lao động chính thức là dữ liệu Quốc gia, hiện thực hóa những mục tiêu mà nhiều năm qua Chính phủ đang hướng đến.
10h51: Đại biểu Nguyễn Thị Như Ý - Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Nai: Quy định rõ hơn về trợ cấp thất nghiệp cho người lao động
Đóng góp ý kiến về dự án Luật Việc làm (sửa đổi), đại biểu Nguyễn Thị Như Ý bày tỏ sự quan tâm về trợ cấp thất nghiệp đối với người lao động. Theo đó, cần quy định rõ hơn về việc đóng, hưởng của người lao động, chế độ hưởng lương hưu... Đại biểu Nguyễn Thị Như Ý cho rằng, cần xem xét sửa đổi quy định về chế độ đóng và hưởng bảo hiểm thất nghiệp nhằm nhằm để đảm bảo quyền lợi của người lao động và nguyên tắc bình đẳng có đóng, có hưởng.
Luật Bảo hiểm xã hội cũng đã được thông qua và sẽ có hiệu lực từ ngày 01/7/2025. Quy định về điều kiện hưởng lương hưu là 15 năm nên trong trường hợp này, người lao động tham gia 144 tháng xong nghỉ hưởng bảo hiểm thất nghiệp và hưởng bảo hiểm xã hội một lần, sau đó quay trở lại thị trường lao động thì vẫn bảo đảm điều kiện nghỉ lương hưu sau này.
10h56: Đại biểu Trương Xuân Cừ - Đoàn ĐBQH Tp. Hà Nội: Quan tâm chính sách hỗ trợ việc làm cho người cao tuổi
Đại biểu Trương Xuân Cừ băn khoăn về chính sách việc làm cho người cao tuổi, trong đó vẫn chưa có sự chủ động trong việc ứng phó với tình trạng già hóa dân số. Đại biểu cho biết, nhìn ra các nước trên thế giới, các nước có chiến lược về kinh tế vàng, nhờ vậy GDP của người cao tuổi đóng góp cho các quốc gia này rất lớn. Đại biểu khẳng định, có những việc cho người cao tuổi thù lao thấp, nhưng hiệu quả rất cao, do đó cần có chính sách huy động sự tham gia của người cao tuổi vào các công việc của xã hội.
Đại biểu đề nghị, cần hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng tập huấn, cấp chứng chỉ quốc gia, chứng chỉ quốc tế cho người cao tuổi; cũng cần tính toán tới việc không chỉ xuất khẩu lao động, mà có thể xuất khẩu chuyên gia.
11h01: Đại biểu Nguyễn Thị Sửu - Đoàn ĐBQH tỉnh Thừa Thiên Huế: Cần đánh giá tác động của chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho người cao tuổi
Tham gia thảo luận tại phiên họp, đại biểu Nguyễn Thị Sửu cho biết, chính sách của Nhà nước về việc làm được đề cập đầy đủ gồm 9 khoản thuộc Điều 5 của Dự luật này nhằm hỗ trợ, thúc đẩy và giải quyết toàn diện vấn đề việc làm cho người lao động Việt Nam. Tuy nhiên, đại biểu cho biết khi rà soát các chính sách của Nhà nước giữa dự thảo Luật Việc làm và Bộ Luật Lao động năm 2019 thì thấy có sự trùng lặp. Đó là phát triển thị trường lao động, phát triển kỹ năng nghề, Hỗ trợ người sử dụng lao động sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật, người dân tộc thiểu. Đại biểu đề nghị ban soạn thảo làm rõ và cần có sự điều chỉnh nhằm tránh chồng chéo, trùng dẫm chính sách.
Về chính sách Người Cao tuổi, đại biểu Nguyễn Thị Sửu đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu quy định theo hướng dẫn chiếu đối với nội dung “khuyến khích người sử dụng lao động tuyển và sử dụng người lao động là người cao tuổi làm việc phù hợp với sức khỏe và khả năng” đã được quy định tại khoản 3 Điều 148 Bộ luật Lao động 2019 cho đồng bộ. Đồng thời, đề nghị bổ sung đánh giá tác động của chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho người cao tuổi đồng thời, rà soát, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của các quy định liên quan.
Về những hành vi bị nghiêm cấm, theo đại biểu, hiện nay, những người hoàn thành việc chấp hành hình phạt tù hoặc đã xong cai nghiện gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm và quay lại hòa nhập với cộng đồng làm ăn lương thiện do sự kỳ thị của cộng đồng và xã hội. Điều này dễ dẫn đến nguy cơ đẩy họ quay lại con đường lầm lỗi, cách biệt xã hội. Vì vậy đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định nghiêm cấm kỳ thị đối với những người vừa chấp hành án phạt tù hoặc những người đã xong cai nghiện vào khoản 1 của điều này cho chặt chẽ, toàn diện.
Về hưởng trợ cấp thất nghiệp, đại biểu Nguyễn Thị Sửu cho rằng dự thảo Luật đã đề cập đến việc đăng ký lao động là cơ sở để xây dựng dữ liệu về lao động, việc làm nhưng chưa quy định rõ mối liên kết giữa cơ sở dữ liệu đăng ký lao động và cơ sở dữ liệu đóng bảo hiểm thất nghiệp. Mặt khác, chưa đề cập đến lộ trình hoàn thiện việc xây dựng cơ sở dữ liệu này. Vì vậy, đề nghị ban soạn thảo bổ sung quy định lộ trình hoàn thiện cơ sở dữ liệu và quy định thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
11h07: Đại biểu Nguyễn Thị Hà – Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh: Hỗ trợ phát triển nhân lực chất lượng cao
Phát biểu tại phiên thảo luận, đại biểu Nguyễn Thị Hà tán thành với sự cần thiết sửa đổi Luật Việc làm hiện hành với các lý do, mục đích đã được phân tích tại Tờ trình của Chính phủ. Quan tâm tới chính sách của Nhà nước về việc làm, đại biểu cho rằng xuyên suốt dự thảo Luật vẫn còn thiếu vắng các quy định nhằm mục đích hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức và khai thác hiệu quả thế mạnh của giai đoạn dân số vàng, vượt qua bẫy thu nhập trung bình mà các nước đang phát triển gặp phải.
Đại biểu phân tích, Việt Nam đang đếm ngược 10 năm giai đoạn vàng để chuyển từ già hóa dân số sang dân số già như các nước châu Âu hiện nay. Do đó, chúng ta cần nghiên cứu bổ sung các quy định cụ thể nhằm ưu tiên hỗ trợ đối với nhóm lao động mới như lao động công nghệ, lao động trong bối cảnh kinh tế số, chuyển đổi số; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào đào tạo nâng cao trình độ lao động. Các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp đặt hàng các doanh nghiệp lớn, hoặc khuyến khích họ tham gia từ khâu xây dựng chương trình và mục tiêu đào tạo. Như vậy sẽ tận dụng được tối đa lợi thế về nhân lực dồi dào, biến thế hệ trẻ thành lực lượng lao động vàng đúng nghĩa, tạo sự đột phá trong xây dựng thị trường lao động hiệu quả.
Ngoài ra, đại biểu cũng cho rằng, việc bổ sung Điều 17 về hỗ trợ tạo việc làm cho người cao tuổi là một bước đi đúng đắn và kịp thời, thể hiện sự quan tâm của nhà nước về chính sách việc làm cho người cao tuổi. Đại biểu đề nghị Nhà nước cần có chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng lao động cao tuổi như giảm thuế, hỗ trợ tiền mặt, vốn vay.
11h12: Đại biểu Võ Mạnh Sơn - Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa: Có giải pháp hỗ trợ kịp thời cho người lao động đối với trường hợp doanh nghiệp nợ đóng, trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp
Về đóng bảo hiểm thất nghiệp tại khoản 5 Điều 58, đại biểu Võ Mạnh Sơn cho rằng, quy định như dự thảo Luật chưa hợp lý, vì để xảy ra tình trạng chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong việc đôn đốc, thu, xử lý hành vi vi phạm việc chậm đống, trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp.
Thực tiễn thi hành Luật Việc làm cho thấy, còn một bộ phận người lao động khi nghỉ việc, mất việc không được hưởng quyền lợi về bảo hiểm thất nghiệp do doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả dẫn đến giải thể, phá sản hoặc chủ doanh nghiệp cố tình không đóng, chậm đóng, trốn đóng hoặc chiếm dụng tiền bảo hiểm thất nghiệp của người lao động, dẫn đến người lao động mất thu nhập. Vì vậy, người lao động mong muốn có giải pháp hỗ trợ kịp thời đối với trường hợp doanh nghiệp nợ đóng, trốn đóng bảo hiểm thất nghiệp để người lao động được hưởng quyền lợi bảo hiểm thất nghiệp đúng như quy định, đồng thời phát triển việc làm mới.
Để bảo đảm quyền lợi cho người lao động, đại biểu Võ Mạnh Sơn đề nghị cần nghiên cứu quy định dành một nội dung Quỹ bảo hiểm thất nghiệp hỗ trợ cho người lao động đóng số tiền vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) thuộc trách nhiệm đóng BHTN nhưng người sử dụng lao động chưa đóng cho Cơ quan bảo hiểm xã hội thì làm các thủ tục giải quyết hưởng các chế độ BHTN. Khi Cơ quan bảo hiểm xã hội thu hồi được số tiền chậm đóng, trốn đóng BHTN của người sử dụng lao động thì hoàn trả lại cho Quỹ BHTN đã hỗ trợ cho người lao động.
Về công nhận tương đương hoặc miễn đánh giá kỹ năng nghề quốc gia tại điểm b khoản 3 Điều 41, đại biểu Võ Mạnh Sơn đề nghị cần quan tâm làm rõ nội dung: xem xét miễn đánh giá kỹ năng nghề quốc gia hoặc công nhận tương đương với trình độ kỹ năng nghề quốc gia cho phù hợp, tương thích với các văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp, nhất là Luật số 15, Luật Khám bệnh, chữa bệnh có hiệu lực năm 2024, tránh làm phát sinh thủ tục hành chính cho các đối tượng công tác trong ngành y tế, tránh chồng chéo giữa các văn bản.
Để khuyến khích người lao động tích cực tham gia BHTN, đại biểu đề nghị nên nghiên cứu quy định hỗ trợ cho đối tượng này khi về hưu, hoặc hỗ trợ thân nhân người lao động khi gặp rủi ro về việc làm.
11h17: Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu.
Giải trình vấn đề đại biểu nêu, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cảm ơn đại biểu Quốc hội đã quan tâm, dành nhiều thời gian, công sức, trí tuệ, góp ý hoàn thiện dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi). Ban soạn thảo và cơ quan thẩm tra và các cơ quan liên quan sẽ phối hợp tiếp tục bổ sung làm rõ để trình kỳ họp tới.
Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung nêu rõ, vấn đề việc làm chịu tác động bởi nhiều hệ thống pháp luật. Việc sửa đổi luật cần tiếp tục vừa rà soát, vừa bổ sung nhưng cũng dự lường những vấn đề mới và đưa ra một số vấn đề có tính chất vượt trội để hoàn thiện thể chế, khung khổ pháp lý, với mục tiêu thúc đẩy xây dựng thị trường lao động Việt Nam đồng bộ, linh hoạt, đa dạng, bền vững và hội nhập, trọng tâm là tạo ra việc làm đầy đủ và chất lượng cao, cũng như năng suất lao động cao hơn. Đây là vấn đề trọng tâm trong luật này cần đặt ra và nhìn nhận một cách nghiêm túc về thị trường lao động Việt Nam.
Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung khẳng định, trên cơ sở dự thảo và góp ý của các đại biểu Quốc hội, cơ quan soạn thảo tiếp tục hoàn thiện theo hướng bổ sung làm rõ hơn, thể chế phải góp phần quản trị, đặc biệt là tạo ra khung khổ pháp lý tạo việc làm đầy đủ, chất lượng và năng suất lao động cao.
Đối với vấn đề tạo việc làm đầy đủ và chất lượng, tập trung vào những vấn đề có tính chất nguyên tắc, gốc là phải thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội để giải quyết gia tăng việc làm, cải thiện hệ thống hỗ trợ việc làm, cải thiện hệ thống dịch vụ công về việc làm, tăng cường bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động, kiên quyết xóa bỏ rào cản thể chế bất bình đẳng trong việc làm, cải thiện hệ thống an sinh xã hội, thúc đẩy tạo việc làm và việc làm chất lượng cao. Trong đó nhà nước, doanh nghiệp phải đóng vai trò chủ đạo, người lao động giữ vai trò chủ động trong công việc của mình và kích hoạt các nguồn lực xã hội, sự tham gia của cả xã hội và tạo công ăn việc làm và phúc lợi xã hội.
Về năng suất lao động, Bộ trưởng nêu rõ, trong bối cảnh thị trường lao động biến đổi đa dạng, phức tạp và nhanh chóng khó lường như hiện nay, chúng ta phải thích ứng nhanh với xu hướng phòng ngừa già hóa dân số, thay đổi môi trường, biến đổi khí hậu và tác động nhanh, sâu sắc, căn bản của khoa học công nghệ. Điều này vừa là tận dụng lợi thế nhưng cũng phòng ngừa và hạn chế tất cả những rủi ro thách thức.
Việt Nam chúng ta phụ thuộc bốn yếu tố cơ bản: mức độ thay đổi và loại hình công nghệ sẽ thay đổi; trình độ kỹ năng lao động; chính sách quốc gia áp dụng hỗ trợ đào tạo và đào tạo lại cho người lao động; tác động của trí tuệ nhân tạo. Trong bối cảnh đó, khó có thể chi tiết hóa tất cả các chính sách trong luật này, mà đòi hỏi phải xây dựng khung chính sách có tính chất mở, dễ điều chỉnh, dễ thích ứng trong từng thời gian. Chúng ta tập trung vào một số vấn đề cơ bản nhưng mở cửa tiếp cận kỹ năng cho tất cả mọi người, nhất là tiếp cận rộng rãi về giáo dục đào tạo, học suốt đời, tư vấn đào tạo kỹ năng thích ứng trong nghề nghiệp. Hoàn thiện thị trưởng lao động toàn diện thích ứng và bền vững, giải quyết tình trạng bất ổn phi chính thức trên thị trường lao động; Cải thiện chất lượng việc làm; Thúc đẩy sự gia tăng, sự năng động của doanh nghiệp, sự lan tỏa của công nghệ; Hạn chế tác động của mặt trái thị trường….
“Sửa Luật Việc làm cũng cần tập trung lấy người lao động, lấy việc làm là trọng tâm của tăng năng suất lao động bền vững. Mỗi đối tượng trong lao động, trong nhóm tuổi cần có những chính sách phù hợp”, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung khẳng định.
11h26: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh kết luận phiên thảo luận
Phát biểu kết luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh cho biết, dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) là dự thảo Luật rất quan trọng, phức tạp, có tính thực tiễn cao, phạm vi điều chỉnh rộng, liên quan đến vấn đề lao động, việc làm- một trong các trụ cột quan trọng trong phát triển bao trùm và bền vững, đáp ứng yêu cầu trong kỷ nguyên mới…
Qua thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh cho biết, đa số đại biểu Quốc hội đánh giá cao tinh thần trách nhiệm của Cơ quan chủ trì soạn thảo và cơ bản thống nhất với việc sửa đổi Luật Việc làm. Đồng thời nêu nhiều vấn đề thực tiễn để củng cố cơ sở, lập luận về tính khả thi của các chính sách về hỗ trợ việc làm; việc nghiên cứu, rà soát các đối tượng, trong đó có đối tượng là người có hoàn cảnh khó khăn, người nghèo, cận nghèo, thoát nghèo, người bị thu hồi đất, người lao động ở khu vực nông thôn, người cao tuổi; nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm; thông tin thị trường lao động; mức đóng bảo hiểm thất nghiệp…
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh nêu rõ, ngay sau Kỳ họp này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra, Cơ quan chủ trì soạn thảo và các cơ quan có liên quan nghiêm túc tiếp thu, giải trình đầy đủ, thấu đáo ý kiến của các đại biểu Quốc hội. Cùng với đó, đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo và Cơ quan chủ trì thẩm tra tiếp tục lấy ý kiến của các chuyên gia, các cơ quan, các nhà quản lý, đối tượng chịu sự tác động… để bảo đảm tính minh bạch, khả thi của dự thảo Luật.
Đồng thời, Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị cần chú trọng quán triệt đổi mới trong phương pháp xây dựng pháp luật trong quá trình chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật; kịp thời báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội những vấn đề phát sinh; phấn đấu đến Kỳ họp thứ 9 sẽ thông qua dự thảo Luật này với chất lượng cao nhất.