Tôi yêu nghề dạy học đến say nồng - Con thuyền tri thức mãi không đong đầy
Hơn 80 năm về trước, cha mẹ sinh ra tôi - năm 1943. Hơn 44 năm trong quân ngũ, tôi chỉ say mê với một nghề: Dạy học. Vì thế, tôi muốn viết hồi ức về tôi và ảnh hưởng của cha tôi đến sự thăng tiến của một nhà giáo yêu nghề như tôi ra sao!
Bài dự thi Cuộc thi Viết về Gia đình học tập của tác giả Đại tá, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Quý (Hà Nội).

Đề tài hợp tác nghiên cứu khoa học đầu tiên với các bạn Nga, Cu Ba và Đông Đức dưới sự hướng dẫn của Thầy Marcov năm 1968.
Cha tôi là ông giáo Tân, là ông giáo trường làng và là chủ tịch xã Đông Lĩnh huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
Ông là người cần cù, siêng năng. Mặc dù không qua trường lớp nào nhưng ông viết chữ khá đẹp. Ông biết tiếng Pháp (bồi) và cả chữ Hán, Nôm. Ông có nhà gỗ to, rộng, đẹp và một nhà lầu 2 tầng bằng gỗ để nghỉ trưa và cũng là chòi canh chống trộm.
Hồi tôi 5, 6 tuổi thì ông cho 3 anh chị học sinh Hà Nội ở nhờ, vì họ đang theo học trường trung học kháng chiến do ông giáo Khang (bạn thân của Tướng Võ Nguyên Giáp) bố tôi gọi là ông Đốc Khang. Các anh ấy dạy chữ, dạy vẽ cho tôi nên tôi không phải đi học vỡ lòng.
Năm 1951, tôi vào thẳng lớp 1. Năm 1957 tôi vào lớp 7 trường cấp 2 Hùng Vương thị xã Phú Thọ cách nhà tôi 14 km phải đi bộ và trọ học ở nhà ông bạn bố tôi - ông Tự, ông là chủ bến xe khách ga Phú Thọ.
Lúc bố tôi đưa đến, tôi bé tẹo, đen nhẻm, mặc bộ quần áo nâu sồng nhà quê, đi guốc mộc, ăn nói lí nhí. Các con nhà ông Tự nhìn tôi bằng nửa con mắt. Hai, ba tháng sau, tối nào tôi cũng giúp các cụ cộng tiền cuống vé xe vừa nhanh vừa chính xác. Thế là ông Tự quý tôi như con, cho tôi ăn chung, ngủ chung với các con ông ấy và cũng không lấy tiền trọ, y hệt bố tôi, ngày xưa ứng xử với các anh chị học sinh Hà Nội ở nhà tôi mấy năm trước.
Cô con gái ông Tự cùng học Trường Hùng Vương với tôi, nhưng khác lớp khoe với bạn bè: "Thằng Quý là thần đồng toán đấy". Thầy chủ nhiệm của tôi là thầy Quỹ - giáo viên toán, vốn quý tôi, nghe vậy thầy lập tức cho tôi vào lớp phân ban Toán - Lý. Niên khóa 1961-1962, tôi thi Đại học Bách khoa Hà Nội vào khoa Điện - VTĐ, đỗ ngay thủ khoa (27,5 điểm) cùng Quang Diệu và Nguyễn Xiển sau này cả ba chúng tôi đều về dạy ở đại học Kỹ thuật Quân sự (nay là Học viện Kỹ thuật Quân sự).
Tháng 8/1965, chiến tranh bùng nổ, bọn tôi đang đi thực tập thì có lệnh tổng động viên nhập ngũ. Chúng tôi vào Binh chủng Tên lửa Phòng không, Quân chủng Phòng không, Không quân và được cử sang Liên Xô học tiếp.
Học được 1 học kỳ dự bị tiếng Nga, bọn tôi tìm hiểu chương trình Toán Lý cơ bản của trường chả khác mấy so với đại học Bách khoa Hà Nội. Tuổi trẻ nhiệt huyết, đòi học vượt bỏ qua năm thứ nhất, năm thứ 2 vào năm thứ 3 để sớm về nước phục vụ chiến đấu chống Mỹ. Lúc đầu chuyên gia nước bạn không tin, vì các học viên khối VAC-XO-VI (Đức, Hungari, Ba Lan, Tiệp Khắc, Nam Tư, Bungari), Cu Ba, Mông Cổ to cao, nói tiếng Nga như gió, mà còn phải học 6 năm. Lần đầu thấy Bộ đội Việt Nam, bé nhỏ lũn cũn, vốn tiếng Nga chưa đủ lại còn đòi học vượt.
Họ thấy chúng tôi quyết tâm nên chọn ra một nhóm nhỏ và đưa chương trình Toán Lý để ôn tập và thi thử. Cô giáo Toán Usenko lên lớp, viết bài tập nào lên bảng, chúng tôi (tôi, Cự Đống, Đức Luyện, Đỗ Cẩm…) xin lên giải ngay tức thì, vì các dạng bài toán này tôi đã giải hầu hết theo các sách bài tập toán tiếng Nga của các tác giả: Liasco; Demidovic; Bellman… từ hồi học ở Bách Khoa Hà Nội.
Cô giáo Usenko đã cho phép tôi và Cự Đống đi chữa bài tập toán cho các lớp học viên Nga của cô, cốt chỉ để khích tướng: "Học viên, Bộ đội Việt Nam bé hạt tiêu, anh dũng và thông minh". Cuối năm thứ 2 cả trường phát động phong trào noi gương tinh thần học tập của học viên, bộ đội Việt Nam.
Cũng từ đấy uy tín và tiếng tăm của đoàn Quân đội Việt Nam được nâng lên đáng kể. Đoàn học viên Quân đội Việt Nam tốt nghiệp khóa đầu tiên, đạt 4 huy chương vàng còn lại toàn bằng đỏ. Chúng tôi về đến Hà Nội đúng vào ngày Bác Hồ vừa mất. Cả nước chìm trong đau thương tang tóc. Chúng tôi được điều ngay về Đại học Kỹ thuật Quân sự và đi sơ tán ở Vĩnh Yên.
Ngay hôm sau, tất cả giáo viên trẻ ngồi vào bàn hồi tưởng và suy ngẫm, ghi chép lại tất cả những gì nhớ được sau 4 năm đèn sách. Tất cả tài liệu, bài giảng vở ghi của chúng tôi là tài liệu tối mật của Quân đội Liên Xô, chuyên gia nước bạn thu lại hết, đóng gói và gửi về sau theo nguyên tắc bảo mật nghiêm ngặt giữa 2 Bộ Quốc phòng.
Chúng tôi đóng quân trên 2 quả đồi bạch đàn mới trồng, trong mấy ngôi nhà tranh tre nứa lá tuềnh toàng trống trải gió lạnh lùa tứ phía, mỗi gian 2 giường tre và một cái bàn. Điện máy nổ chỉ có từ 19 giờ đến 21 giờ 30.
Học viên Tên lửa Phòng không đã có tới 33 thành viên. Họ đã kết thúc năm thứ 3 đang chờ các thầy lên lớp. Tôi, thiếu úy trẻ nhất được phân công xây dựng mục tiêu, chương trình đào tạo; sơ đồ logic môn học theo đúng mô hình đào tạo của Liên xô cho 3 học kỳ: 14 môn học chuyên ngành, tổng là 1200 tiết… và bảo vệ đề án này trước Ban giám hiệu và phòng huấn luyện. Hiệu trưởng lúc đó là đại tá Đặng Quốc Bảo, một vị chỉ huy nổi tiếng là nghiêm khắc, am tường và thông thái.
Tháng 9/1971 chúng tôi bắt đầu đứng lớp. Tháng 3/1973 ngồi Hội đồng bảo vệ đồ án tốt nghiệp Kỹ sư Tên lửa Phòng không đầu tiên của Đại học Kỹ thuật Quân sự cho 33 thành viên, thành công.
Tiếp những năm sau tôi đứng lớp dạy khóa 2, khóa 3… đến khóa 38. Mười năm sau tốt nghiệp, năm 1979 tôi lại được cử đi thi nghiên cứu sinh. Thi đỗ, tôi được Liên xô nhận làm nghiên cứu sinh ngay một tháng sau, sang Liên Xô tôi trình bày hướng nghiên cứu của mình. Thầy bảo: Thầy chỉ có đề tài giải quyết bằng lý thuyết xác suất và vận trù. Tôi ù tai luôn, vì tôi có phải dân toán xác suất đâu. Trăn trở mãi, tôi quyết định nhận và tự đọc lý thuyết xác suất của bà Vensen, đọc kỹ lại thấy hay và xài được, tôi hoàn thành luận án Phó Tiến sĩ trong 3 năm ở Liên Xô.
Năm 1983, tôi về lại Bộ môn, nơi mà tôi và các cộng sự đã đặt những viên gạch nền móng đầu tiên, bộ môn gồm những khuôn mặt mà tôi rất yêu quý, để đứng lớp dạy từ khóa 14 đến khóa 38 là năm tôi vừa 64 tuổi và nghỉ hưu.
Chuyên ngành Tên lửa Phòng không là một lĩnh vực kiến thức rộng và khá thú vị, tuy nhiên nó lại dùng công nghệ tương tự (Analog). Xu thế của kỹ thuật hiện đại là sử dụng máy tính số và công nghệ xử lý số (Dizital). Cả bộ môn tôi nhanh nhạy chuyển hướng sang số hóa kỹ thuật điều khiển tên lửa từ xa. Tiếp cận với kỹ thuật số, tất cả anh em chúng tôi lao thẳng vào việc khai thác sử dụng Apple 2 (4bit).
Tôi thì thực hiện 2 dự án. Một là thiết kế chế tạo máy xác định phần tử bắn pháo binh. Hai là xây dựng hệ chuyên gia chẩn đoán và chữa bệnh bằng y học cổ truyền dân tộc.
Để thực hiện dự án 1, tôi lập nhóm 4 người: Tôi, Ngọc Quang, Đức Hùng, Sĩ Nhiếp, tôi ký hợp đồng với Phòng Khoa học, Bộ Tư lệnh Pháo binh có giá trị 600 ngàn để ra được một thiết bị hoàn chỉnh. Sau khoảng 6 tháng, dự án hoàn thành, chúng tôi chế tạo được 6 máy bắn hoàn chỉnh bàn giao cho Pháo binh. Trong triển lãm Khoa học Kỹ thuật Giảng Võ 1992 còn đoạt giải Huy chương Vàng.
Dự án 2, tôi rất mê nền y học dân tộc nước nhà. Tôi trình bày dự án với Giáo sư, Bác sĩ, Phó Giám đốc Bệnh viện 108 Phan Tử Dương, ý tưởng xây dựng hệ chuyên gia. Ông rất ủng hộ và viết thư tay gửi Viện Y học cổ tuyền Quân đội do Bác sĩ Bành Khìu là Viện trưởng lúc bấy giờ. Để được tham gia khóa đào tạo 2 năm bác sĩ chuyên khoa 2 y học cổ truyền dân tộc. Tôi phải viết: Tiểu luận nhập học. Hai tiểu luận trong 2 năm học tập và luận văn tốt nghiệp.
Sau khi tốt nghiệp bác sĩ chuyên khoa 2 y học cổ truyền dân tộc, có chứng chỉ, tôi thiết kế bài toán hệ chuyên gia, tích hợp hệ thống 4 dòng thông tin liên quan đến số phận, bản mệnh, bệnh tật… của mỗi một con người. Tôi đã đọc và nghiên cứu về khái niệm tiềm năng con người...
Tôi gặp chủ nhiệm Khoa Đông y Viện 108 - Bác sĩ Nguyễn Văn Minh trao đổi ý tưởng và thử nghiệm giải bài toán Thời Châm với ông. Để trải nghiệm và giải từng bài toán một, tôi chọn bài toán Thời Châm trong phạm vi tiểu phẫu thuật bướu cổ và tuyến giáp. Tôi mượn được Apple 2 (hệ 4 bit) lập trình sẵn bằng ngôn ngữ Pascal và kéo máy theo đến từng bệnh nhân hỏi rõ ngày tháng năm sinh, tra cứu và giải theo thời gian thực, tìm thời điểm các huyệt vượng khí của từng bệnh nhân để bác sĩ châm trước khi mổ. Chúng tôi đã thành công mổ cho 200 bệnh nhân không cần thuốc tê. Đề tài được đánh giá tốt của Cục Quân Y Bộ Quốc phòng và Bộ Khoa học Công nghệ năm 1994.
Con gái lớn của tôi sinh đầu năm 1974. Năm 1991, con gái tôi vào đại học Ngoại ngữ Hà Nội khoa tiếng Anh. Tôi mê sách của nhà sư phạm Nga Kirienko viết đại ý: hãy là bạn của con. Yêu con, quý con; tôi dạy tiếng Nga cho con từ bé theo nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn: nghe-nói-đọc-viết và tư duy ngay bằng tiếng Nga.
Đúng cách bố dạy, con gái tôi rất giỏi tiếng Anh nên ra trường trở thành thành viên của Công ty KV Management (Singapo tại VN). Năm1998, con gái tôi tốt nghiệp ngành Luật tại Singapo và sau khi sinh con trai thứ 2, lại sang Mỹ học và thi lấy bằng luật sư kinh tế cân bằng. Sau sự kiện ấy, công việc của con gái tôi - một doanh nhân rất thành đạt theo mọi nghĩa.