Tôi mòn mỏi chờ xét từ giáo viên hạng II lên hạng I

Là một giáo viên tiểu học, người viết xin chia sẻ việc đang mòn mỏi chờ xét thăng hạng I ra sao.

Chưa đầy 1 tháng vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có 2 công văn gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương về việc rà soát việc thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên. Điều này khiến những giáo viên đủ tiêu chuẩn xét thăng hạng phấn khởi nhưng cũng cho thấy một bất cập là thời gian qua, nhiều thầy cô vì sự thiếu rốt ráo của địa phương mà quyền lợi bị ảnh hưởng không ít. Là một giáo viên tiểu học, người viết xin chia sẻ việc đang mòn mỏi chờ xét thăng hạng I ra sao.

 Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Từng không được xét hạng I vì vướng tiêu chuẩn phải có bằng thạc sĩ

Tôi là giáo viên tiểu học có thâm niên đóng bảo hiểm xã hội trên 32 năm với nhiều thay đổi của chức danh nghề nghiệp giáo viên. Tôi từ giáo viên cao cấp sang hạng II giờ vẫn ở hạng II. Dù đủ tiêu chuẩn là giáo viên hạng I nhưng tôi đang phải chờ đợi.

Sở dĩ tôi đang ở hạng II vì năm 2021 địa phương xếp hạng II cũ sang hạng II mới theo Thông tư 02/2021/TT-BGDĐT ngày 02 tháng 02 năm 2021 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc Quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các trường tiểu học công lập. Lúc đó, theo Thông tư 02, tôi bị vướng tiêu chuẩn "có bằng thạc sĩ trở lên thuộc ngành đào tạo giáo viên đối với giáo viên tiểu học hoặc có bằng thạc sĩ trở lên chuyên ngành phù hợp với môn học giảng dạy hoặc có bằng thạc sĩ quản lý giáo dục trở lên;...".

Thời điểm đó, tôi chỉ có bằng đại học, trong khi thông tư yêu cầu phải có bằng thạc sĩ. Thế nhưng, khi Thông tư 08/2023/TT-BGDĐT ngày 14/4/2023 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc “Sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư số 01/2021/TT-BGDĐT, 02/2021/TT-BGDĐT, 03/2021/TT-BGDĐT, 04/2021/TT-BGDĐT ngày 02 tháng 02 năm 2021 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập” ra đời, tôi đủ điều kiện bởi quy định chỉ yêu cầu có bằng đại học.

Đúng ra, theo khoản 7 điều 5 của Thông tư 08/2023/TT-BGDĐT, chúng tôi sẽ được xem xét thăng hạng tiếp khi thông tư có hiệu lực, song thực tế lại không được triển khai. Theo quy định, tôi đã đủ tiêu chuẩn nhưng không được xét thăng hạng nên bị thiệt thòi về tiền lương trong hơn 2 năm rưỡi qua.

Đủ tiêu chuẩn thăng hạng nhưng tôi vẫn chưa được xét

Tôi đã lỡ "chuyến đò" để được thăng hạng giáo viên tiểu học hạng I, đành chờ đợi vào đợt thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học do tỉnh tổ chức. Rồi Thông tư 13/2024/TT-BGDĐT ngày 30/10/2024 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định tiêu chuẩn, điều kiện xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non, phổ thông công lập và giáo viên dự bị đại họccó hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/12/2024 khiến tôi và nhiều trường hợp tương tự vui mừng. Bởi chúng tôi không phải thi thăng hạng mà sẽ được xét.

Thông tư quy định tiêu chuẩn xét thăng hạng giáo viên tiểu học hạng I như sau: “Điều 6. Tiêu chuẩn, điều kiện xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng I (mã số V.07.03.27): Giáo viên tiểu học được đăng ký dự xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng I (mã số V.07.03.27) khi đáp ứng đủ các tiêu chuẩn, điều kiện sau:

1. Đã được bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng II (mã số V.07.03.28).

2. Trong thời gian giữ chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng II và tương đương, có 05 năm công tác liền kề trước năm dự xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp được xếp loại chất lượng ở mức hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên, trong đó có ít nhất 02 năm được xếp loại chất lượng ở mức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp tốt; không trong thời hạn xử lý kỷ luật; không trong thời gian thực hiện các quy định liên quan đến kỷ luật theo quy định của Đảng và của pháp luật.

3. Đáp ứng tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng của chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng I theo quy định tại khoản 2, khoản 5 Điều 2 Thông tư số 08/2023/TT-BGDĐT.

4. Đáp ứng tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng I theo quy định tại điểm a, điểm b, điểm c, điểm d, điểm e khoản 4 Điều 5 Thông tư Số 02/2021/TT-BGDĐT và khoản 3 Điều 2 Thông tư số 08/2023/TT-BGDĐT. Trong đó, các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng theo quy định tại điểm e khoản 4 Điều 5 Thông tư số 02/2021/TT-BGDĐT phải là các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng đạt được trong thời gian giữ chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng II và tương đương.

5. Đáp ứng yêu cầu về thời gian giữ chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng II (bao gồm cả thời gian giữ hạng tương đương) theo quy định tại khoản 6 Điều 2 Thông tư số 08/2023/TT-BGDĐT”.

Chiếu theo các quy định trên tôi đã đạt và vượt nhiều tiêu chuẩn:

1. Đã được bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng II (mã số V.07.03.28) từ ngày 04/01/2021.

2. Trong thời gian 21 năm giữ chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng II và tương đương, từ năm học 2015-2016 đến nay (8 năm) tôi đều được xếp loại chất lượng ở mức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

3. Đáp ứng tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng của chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng I theo quy định tại khoản 2 (Có chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học), khoản 5 (có bằng cử nhân, ngành đào tạo giáo viên tiểu học cấp năm 2001).

4. Các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng đạt được trong thời gian giữ chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng II và tương đương: 9 lần giáo viên giỏi cấp huyện, 10 lần đạt chiến sĩ thi đua cơ sở, 2 lần đạt giáo viên giỏi cấp tỉnh, 3 bằng khen cấp tỉnh, 2 chiến sĩ thi đua cấp tỉnh, 1 bằng khen Chính phủ…

5. Tôi có 21 năm giữ chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng II, kể cả thời gian giữ hạng tương đương.

Đáng nói, hơn 1 năm Thông tư 13/2024/TT-BGDĐT có hiệu lực thi hành vậy mà chỗ tôi chưa một lần được xét thăng hạng.

Ở nơi tôi dạy, chưa có trường hợp nào được xét thăng hạng I mặc dù có nhiều giáo viên đủ tiêu chuẩn theo quy định. Theo Công văn 64/BNV-CCVC của Bộ Nội vụ, các đơn vị sự nghiệp công lập chỉ được tỉ lệ tối đa 10% đối với giáo viên hạng I và 50% đối với giáo viên hạng II. Ở trường tôi, có hơn 60% giáo viên hạng II, nhưng giáo viên hạng I chưa có giáo viên nào được xếp. Việc để trống giáo viên xếp hạng I ở các trường đã tạo tâm lý cho thầy cô chẳng mặn mà với thi đua, thành tích. Chính điều đó đã tạo sức ì trong không ít giáo viên ngại thi đua trong công tác giảng dạy, chuyên môn, chủ nhiệm lớp.

Nâng lương, nâng ngạch, thăng hạng chức danh nghề nghiệp là quyền lợi của giáo viên. Sự chậm trễ đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiền lương và động lực phấn đấu của giáo viên. Trong khi đời sống của nhiều giáo viên còn khó khăn, việc quan tâm việc thực hiện thăng hạng sẽ là liều thuốc tích cực để thầy cô không ngừng phấn đấu, nâng cao tay nghề, nghiệp vụ chuyên môn, nâng cao chất lượng giáo dục thực chất. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có đề nghị về việc thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên, các địa phương cần vào cuộc, bắt tay vào chỉ đạo các cơ sở giáo dục thực hiện. Mong rằng, nhà giáo chúng tôi không còn phải mòn mỏi chờ xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp!

(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.

Bùi Đào

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/toi-mon-moi-cho-xet-tu-giao-vien-hang-ii-len-hang-i-post256894.gd