Tòa hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa chồng với vợ cũ sang vợ mới
Vợ mới đã ra công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng đất, đã giao tiền cho chồng 450 triệu nhưng kết luận giám định lại chỉ ra chữ ký của vợ cũ là không đúng.
Vừa qua, TAND TP Cần Thơ đã xét xử phúc thẩm vụ kiện chia tài sản chung, nợ chung khi ly hôn giữa bà T và bị đơn là ông Đ, do có kháng cáo của bà T và một người liên quan.
Hai bên đồng thuận ly hôn nhưng có tranh chấp về vấn đề tài sản. Đáng chú ý, trước khi kết hôn với bà T, ông Đ từng kết hôn và tạo lập tài sản chung là thửa đất với một người khác. Thửa đất này sau đó được sang tên từ ông Đ và vợ cũ cho bà T (vợ mới).
Cụ thể, bà T trình bày, năm 2015, bà và ông Đ xây dựng hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào năm 2016. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống nên đã ly thân. Cả hai chưa có con chung. Xét thấy không thể tiếp tục chung sống, bà yêu cầu được ly hôn ông Đ.
Bà T yêu cầu công nhận cho bà thửa đất hơn 112 m2, theo giấy chứng nhận mang tên ông Đ và vợ cũ nhưng đã chỉnh lý sang tên cho bà vào tháng 12-2017; chấp nhận phản tố của người liên quan về việc bà và ông Đ cùng liên đới trả nợ…
Ông Đ đồng ý với lời trình bày của bà T về quá trình hôn nhân, đến tháng 7-2019 cả hai đã ly thân, ông cũng đồng ý ly hôn.
Về tài sản chung, ông Đ yêu cầu chia đôi các khoản tiền gồm 400 triệu gửi tiết kiệm, 350 triệu tiền mặt (nguyên đơn giữ); 290 triệu tiền bán đất; liên đới trả khoản nợ ngân hàng. Ngoài ra, ông yêu cầu vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng thửa đất nêu trên, hủy đính chính sang tên bà T, kiến nghị thu hồi sổ hồng để điều chỉnh sang tên ông và tên vợ cũ.
Cũng chính thửa đất đó, một người liên quan cho biết bà T thế chấp để vay của bà hơn 450 triệu nên đề nghị tòa buộc bà T và ông Đ liên đới trả nợ gốc và lãi…
Vợ cũ của ông Đ cũng có yêu cầu độc lập về việc vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng đất nêu trên, hủy đính chính giấy chứng nhận sang tên bà T, kiến nghị thu hồi giấy đất này để điều chỉnh sang tên ông Đ.
Xử sơ thẩm, TAND quận Bình Thủy công nhận thuận tình ly hôn giữa bà T và ông Đ. Về tài sản chung, nợ chung, tòa tuyên hợp đồng chuyển nhượng đất vô hiệu; kiến nghị Sở TN&MT, chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai quận Bình Thủy thu hồi giấy chứng nhận đã chỉnh lý biến động cho bà T để sang tên lại cho ông Đ và vợ cũ…
Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về công nhận quyền sử dụng thửa đất nêu trên. Chấp nhận phản tố của bị đơn, bà T có trách nhiệm giao lại cho ông Đ số tiền 375 triệu; không chấp nhận phản tố về chia đôi số tiền 290 triệu và khoản nợ ngân hàng…. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người liên quan, buộc bà T phải trả số nợ gốc và lãi hơn 600 triệu, không chấp nhận việc ông Đ phải liên đới trả khoản nợ này.
Tại phiên tòa phúc thẩm, tòa hỏi về quá trình chuyển nhượng thửa đất và số tiền giao dịch, bà T cho rằng bà có đến văn phòng công chứng ký chuyển nhượng, số tiền chuyển nhượng bà đã giao cho ông Đ là 450 triệu. Tuy nhiên, bà T không có chứng cứ về việc đã giao số tiền này cho ông Đ…
Nhận định về hợp đồng chuyển nhượng đất, tòa phúc thẩm cho rằng, bà T nói đã nhận chuyển nhượng thửa đất hợp pháp từ ông Đ và vợ cũ sang cho bà nhưng việc này vợ cũ ông Đ không thừa nhận. Cạnh đó, theo kết luận giám định, chữ ký của vợ cũ ông Đ trong hợp đồng chuyển nhượng đất là không phải của bà này.
Ngoài ra, tòa cho rằng, thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng là thời điểm ông Đ và bà T chung sống hạnh phúc nên việc ký hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Đ với vợ cũ sang bà T (khi này là vợ mới) là không có cơ sở.
Ngoài ra, tòa cho rằng, thời điểm bà T vay tiền của người liên quan là thời điểm hai vợ chồng đã không còn chung sống, đồng thời số tiền bà vay mượn không chứng minh đã phục vụ đời sống chung gia đình với ông Đ. Vì vậy, ông Đ không phải liên đới trả nợ số tiền này.
Từ đó, tòa bác kháng cáo của bà T và người liên quan, giữ nguyên các phán quyết của tòa sơ thẩm, chỉ chỉnh sửa về phần án phí.